Dương Danh Dy
gửi cho
BBCVietnamese.com từ Hà Nội
|
|
Tháng 9 năm 1977, tôi
được lãnh đạo Bộ Ngoại giao Việt Nam cử sang làm Bí thư thứ nhất tại Đại sứ
quán Việt Nam tại Bắc Kinh, chuyên làm công tác nghiên cứu.
Quan hệ hai nước Việt
Trung, từ lúc tôi ở trong nước đã xấu, lúc này càng xấu đi từng ngày.
Dòng “nạn kiều” dưới
sự kích động của nhà đương cục Trung Quốc vẫn lũ lượt kéo nhau rời khỏi Việt
Nam, một phần về Trung Quốc một phần đi sang các nước khác.
Lấy lý do cần có tiền
để “nuôi nạn kiều”, ngày 13/5/1978 lần đầu tiên nhà cầm quyền Trung Quốc
tuyên bố cắt một phần viện trợ không hoàn lại đã ký cho Việt Nam và rút một
bộ phận chuyên gia về nước.
Không lâu sau đó, ngày
3/7/1978 chính phủ Trung Quốc tuyên bố cắt hết viện trợ và rút hết chuyên gia
đang làm việc tại Việt Nam về nước.
Xung đột biên giới
trên đất liền, nhất là tại điểm nối ray trên đường sắt liên vận Hà Nội-Bằng
Tường ngày càng tăng (có lúc có nơi đã xảy ra đổ máu).
Chuẩn bị tình
huống xấu
Tháng 7 năm 1978 chúng
tôi được phổ biến Nghị Quyết TW 4, tinh thần là phải thấu suốt quan điểm nắm
vững cả hai nhiệm vụ vừa xây dựng kinh tế vừa tăng cường lực lượng quốc
phòng, chuẩn bị tốt và sẵn sàng chiến đấu.
Tháng 11 năm 1978
Việt Nam ký “hiệp ước hữu nghị và hợp tác” với Liên Xô.
Đến tháng 12 năm 1978
mọi việc chuẩn bị cho tình huống xấu nhất trong đại sứ quán đã làm xong. Sứ
quán nhận được máy phát điện chạy xăng (và đã cho chạy thử), gạo nước, thực
phẩm khô đã được tích trữ đầy đủ, đại sứ quán mấy nước anh em thân thiết cũng
nhận được các đề nghị cụ thể khi bất trắc xẩy ra…
|
Tôi không bao giờ có thể quên vẻ mặt lỗ mãng và lời nói
“bạo đồ” đầy giọng tức tối của ông ta (Đặng Tiểu Bình).
![https://www.bbc.com/staticarchive/97a6cdf56b5f285dd05db8176f703373afdd4b6e.gif](file:///C:\Users\PHUOCL~1\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image005.gif)
|
Tôi được đồng chí đại
sứ phân công đọc và lựa chọn các tài liệu lưu trữ quan trọng, cái phải gửi về
nhà, cái có thể hủy,
Tháng 12 năm 1978
trong chuyến thăm mấy nước Đông Nam Á, trong một cuộc trả lời phỏng vấn, Đặng
Tiểu Bình vừa hùng hổ vừa tức tối nói một câu không xứng đáng với tư cách của
một người lãnh đạo một nước được coi là văn minh: “Việt Nam là côn đồ, phải
dạy cho Việt Nam bài học”.
Tôi không bao giờ có
thể quên vẻ mặt lỗ mãng và lời nói “bạo đồ” đầy giọng tức tối của ông ta qua
truyền hình trực tiếp và tiếng người phiên dịch sang tiếng Anh là “hooligan”
- tức du côn, côn đồ.
Rồi ngày 22 tháng 12
năm 1978, Trung Quốc đơn phương ngừng vận chuyển hành khách xe lửa liên vận
tới Việt Nam, rất nhiều cán bộ, sinh viên Việt Nam từ Liên Xô Đông Âu trở về
bị đọng lại trong nhà khách sứ quán chờ đường hàng không và cuối cùng đến đầu
tháng 1 năm 1979 đường bay Bắc Kinh Hà Nội cũng bị cắt.
Đầu tháng 1 năm 1979
quân đội Việt Nam bất ngờ phản công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, chỉ
trong thời gian ngắn đã đập tan sức chống cự của bè lũ Polpot, tiến vào giải
phóng Phom Penh. Đây cũng là điều mà Đặng Tiểu Bình không ngờ.
Lại một quả đắng khó
nuốt nữa đối với nhà lãnh đạo Trung Quốc này.
'Không đánh nhau
không xong'
Cuối tháng 1 năm 1979
Đặng Tiểu Bình thăm Mỹ, được Tổng thống Carter đón tiếp với nghi lễ rất cao,
hai nước quyết định thiết lập quan hệ ngoại giao, và không biết còn bàn bạc
gì nữa? Trên đường về nước Đặng Tiểu Bình ghé qua Nhật Bản.
Trước những tình hình
trên, một số anh em nghiên cứu chúng tôi đã khẳng định khá sớm: hai nước anh
em thân thiết như răng với môi này không đánh nhau một trận không xong!
|
|
Lính Trung Quốc
bị bắt tại Phố Lu
|
Lý trí mách bảo như
vậy, thậm chí còn mách bảo hơn nữa: Trung quốc đã từng gây cuộc chiến tranh
biên giới với Ấn Độ và nhất là với Liên Xô và cả hai lần họ đều bất ngờ ra
tay trước.
Thế nhưng về mặt tình
cảm (bây giờ nhìn lại thì còn có cả sự ngây thơ, cả tin nữa) vẫn hy vọng dù
chỉ là chút ít thôi: quan hệ Việt Trung đã từng gắn bó, sâu nặng như vậy, họ
không thể một sớm một chiều trở mặt được.
Không nói tới những
khoản viện trợ to lớn có hiệu quả, những tình cảm thân thiết như anh em trước
đây, mà ngay trong những giờ phút căng thẳng này, tôi vẫn không thể quên được
những việc làm tốt hay tỏ ra biết điều của một số cán bộ Trung Quốc:
Năm 1977, Nhà máy dệt
Vĩnh Phúc do Trung Quốc viện trợ cho ta, sau một hồi chạy thử vẫn không hiện
đúng màu nhuộm cần thiết, một kỹ sư Trung Quốc đã bí mật cung cấp cho ta bí
quyết. Khi các chuyên gia Trung Quốc khác thấy kết quả đó, không biết do ai
chỉ đạo, họ đã “xử lý” một cách tàn bạo, anh bị đánh tới chết.
Khi đoàn chuyên gia
Trung Quốc thi công cầu Thăng Long bị cấp trên của họ điều về nước, một số
đồng chí đã để lại khá nhiều bản vẽ, tài liệu kỹ thuật về chiếc cầu này cho
ta. Tôi biết chiếc cầu Chương Dương do ta tự thiết kế thi công sau này đã
dùng một số sắt thép do phía Trung Quốc đưa sang để dựng cầu Thăng Long.
Mặc dù khi truyền hình
trực tiếp , Trung Quốc không thể cắt được câu nói lỗ mãng của Đặng Tiểu Bình:
Việt Nam là côn đồ, nhưng báo chí chính thức ngày hôm sau của Trung Quốc đã
cắt bỏ câu này khi đưa tin ( chỉ còn đăng câu “phải dạy cho Việt Nam bài học”
, nghĩa là đỡ tệ hơn).
Chúng tôi đã làm
gì?
Trong bối cảnh trên,
cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu ngày 17/2/1979 do nhà cầm quyền Trung Quốc
- mà người chủ xướng là Đặng Tiểu Bình, phát động, về tổng thể không bất ngờ
đối với chúng tôi, nhưng về thời gian cụ thể và nhất là về qui mô binh lực mà
Trung Quốc sử dụng thì quả là không tính tới.
Sau này những day dứt
về dự báo không chính xác trên đã có phần giảm bớt, khi được biết có một số
cán bộ trung cấp và một số đơn vị quân đội Trung Quốc chỉ sau khi đã tiến vào
lãnh thổ nước ta rồi họ mới biết là phải đi đánh Việt Nam.
10 giờ tối ngày 17/2/79(
tức 9 giờ tối Việt Nam) tôi bật đài nghe tin của đài tiếng nói Việt Nam,
không thấy có tin quan trọng nào liên quan đến hai nước, tôi chuyển đài khác
nghe tin.
Khoảng 10 giờ 30 phút
đồng chí Trần Trung, tham tán đại biện lâm thời( thời gian này đại sứ Nguyễn
Trọng Vĩnh về Việt Nam họp) đến đập mạnh vào cửa phòng tôi: Dy, lên phòng
hạnh phúc họp ngay, Trung Quốc đánh ta rồi!
|
Về mặt tình cảm (bây giờ nhìn lại thì còn có cả sự ngây
thơ, cả tin nữa) vẫn hy vọng dù chỉ là chút ít thôi: quan hệ Việt Trung đã
từng gắn bó, sâu nặng như vậy, họ không thể một sớm một chiều trở mặt được.
![https://www.bbc.com/staticarchive/97a6cdf56b5f285dd05db8176f703373afdd4b6e.gif](file:///C:\Users\PHUOCL~1\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image005.gif)
|
Ít phút sau, một số
đồng chí có trách nhiệm đã có mặt đông đủ. Đồng chí Trần Trung phổ biến tình
hình nhà vừa thông báo: sáng sớm ngày 17/2, bọn bành trướng Trung Quốc đã tấn
công trên toàn tuyến biên giới trên đất liền ( 6 tỉnh của Việt Nam lúc đó)
với qui mô 20 sư đoàn bộ binh.
Hai sư đoàn chủ lực
của ta cùng với bộ đội địa phương và anh chị em dân quân du kích đang anh
dũng chống trả.
"Nhiệm vụ của
chúng ta bây giờ là dịch ngay bản Tuyên Bố của chính phủ ta ra 3 tiếng Trung,
Anh, Pháp để phục vụ cho cuộc họp báo quốc tế sẽ phải tổ chức và để thông bào
càng rộng càng tốt cho một số nhân dân Trung Quốc biết rõ sự thực."
Bộ phận dịch tiếng
Trung, dưới sự chỉ huy của anh Thái Hoàng-Bí thư thứ nhất, gồm hai đồng chí
Hoàng Như Lý, bí thư thứ ba và Chu Công Phùng cán bộ phòng chính trị, đã dịch
văn bản một cách “ngon lành”; đồng chí Lê Công Phụng, bí thư thứ ba phụ trách
phần dịch tiếng Anh cũng không vất vả gì; riêng phần tiếng Pháp, đồng chí
Minh, phiên dịch tiếng Pháp do mới ra trường không lâu, nên có đôi lúc tỏ ra
luống cuống.
Guồng máy dịch, in
roneo, soát, sửa lại bản in nhanh chóng chạy đều, mọi người làm việc không
biết mệt với lòng căm giận bọn bành trướng.
Thi thoảng mấy câu
chửi bọn chúng như kìm nén không nổi lại khe khẽ bật ra từ vài đồng chí.
Không căm tức uất hận sao được?
Khi chúng tôi hoàn
thành công việc thì trời đã hửng sáng (đài BBC sau đó đã đưa tin, tối ngày
17/2/1979 toàn Đại sứ quán Việt Nam để sáng đèn).
Những người ngoài 40,
50 chúng tôi sau một đêm vất vả không ngủ vẫn tỏ ra bình thường nhưng riêng
hai đồng chí Phùng và Minh đang tuổi ăn tuổi ngủ, tuy được đồng chí Đặng
Hữu-Bí thư thứ nhất, tiếp sâm, nhưng vẻ mặt sau một đêm căng thẳng đã lộ nét
mệt mỏi. Thương cảm vô cùng.
Tuy vậy, chúng tôi đã
nhanh chóng bước vào ngày làm việc mới với tất cả sức mạnh tinh thần và lòng
căm thù bọn bành trướng bá quyền, nước lớn.
Quá khứ 30 năm
Cuộc chiến tranh do
nhà cầm quyền Bắc Kinh mà người chủ xướng là Đặng Tiểu Bình gây ra, kết thúc
đã 30 năm.
Sau khi bình thường
hóa, quan hệ hai nước nhìn chung phát triển khá tốt.
Tuy nhiên cần nhấn
mạnh một điều, vì nghĩa lớn, chúng ta đã thực hiện đúng lời cam kết: không
nhắc lại chuyện cũ. Nhưng ở phía bên kia, một số kẻ không biết điều, vẫn
thường xuyên, xuyên tạc sự thật lịch sử, rêu rao, tự cho là đã “giành thắng
lợi”, là “chính nghĩa”, là “Việt Nam bài Hoa, Việt Nam chống Hoa, Việt Nam
“xua đuổi nạn kiều”, Việt Nam xâm lược Cămpuchia” v.v..
Cho đến hôm nay, một
số cuốn sách lịch sử, sách nghiên cứu, không ít bài thơ, truyện, ký…vẫn nhai
lại những luận điệu trên dù hai nước đã bình thường hóa quan hệ được gần hai
chục năm.
|
Vết thương chung phải do cả hai bên cùng đồng tâm, thành
ý chữa trị thì mới có thể lành hẳn.
![https://www.bbc.com/staticarchive/97a6cdf56b5f285dd05db8176f703373afdd4b6e.gif](file:///C:\Users\PHUOCL~1\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image005.gif)
|
Tôi nghỉ hưu đã được
hơn mười năm nhưng do vẫn tiếp tục nghiên cứu về Trung Quốc, nên thỉnh thoảng
vẫn có dịp gặp các bạn cũ công tác tại Bộ Ngoại Giao Trung Quốc trước đây
cũng như nhiều học giả Trung Quốc.
Không dưới một lần tôi
đã thân tình và nghiêm túc nhắc họ: nếu các bạn chỉ nhận phần đúng trong
những việc xảy ra trong thời gian trước đây, đổ hết lỗi cho cho người khác
thì quan hệ Việt Trung dù ai đó có dùng những chữ vàng để tô vẽ cũng không
thể nào xóa bỏ được những vết hằn lịch sử do người lãnh đạo của các bạn gây
ra, quan hệ hai nước không thể nào thực sự phát triển tốt đẹp được, vì những
hoài nghi lớn của nhân dân hai bên chưa được giải tỏa?
Mong rằng một số nhà
lãnh đạo Trung Quốc hiện nay nên nhớ chuyện sau: nếu không biết lời dặn của
Chủ tịch Mao với đoàn cố vấn Trung Quốc khi sang giúp Việt nam thời kỳ chống
Pháp: ‘Tổ tiên chúng ta trước đây đã làm một số việc không phải với nhân dân
Việt Nam, các anh sang giúp nước bạn lần này là để trả nợ cho cha ông’; và
nếu không thấy trong chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên sau khi hòa bình lập
lại ở miền Bắc, Thủ tướng Chu đã tới dâng hương tại đền thờ Hai Bà, thì chắc
chắn những người Việt Nam thời đó không dễ quên được chuyện cũ để nhanh chóng
hòa hiếu với Trung Quốc như sau đó đâu?
Vết thương chung phải
do cả hai bên cùng đồng tâm, thành ý chữa trị thì mới có thể lành hẳn.
Chúng ta không nói lại
chuyện cũ là vì nghĩa lớn, chứ không phải vì chúng ta không có lý, không phải
vì người Việt Nam sợ hãi hay chóng quên.
Đây là ý kiến riêng
của tác giả, đang sống ở Hà Nội. Quý vị có chia sẻ hoặc đóng góp,
xin gửi về vietnamese@bbc.co.uk hoặc sử dụng hộp tiện ích bên tay
phải.
Nguyen Long, Hanoi
Tôi đã học hết 17 năm ở đất nước này mà không hiểu gì đáng kể đến sự kiện
17/2/79. Hôm nay được đọc hồi ký của Ông Cơ và bài viết của Ông Dy tôi đã bật
khóc. Tại sao 80 triệu dân Việt Nam hiện tại không được biết rõ về sự kiện
này và không có hoạt động tưởng niệm? Tôi khẩn thiết đề nghị Cộng đồng chúng
ta hãy thành lập một trang web chuyên về sự kiện này và tập hợp các tên tuổi
các chiến sĩ đã ngã xuống, như một nghĩa trang online và xa hơn hãy lấy ngày
21/1 (âm lịch) làm ngày giỗ chung của đồng bào Việt Nam không kể đang ở trong
hay ngoài nước tổ chức.
|
No comments:
Post a Comment