Amos Goldberg, sử gia người Israel: “Điều đang xảy ra ở
Gaza là một cuộc diệt chủng, vì Gaza không còn tồn tại”
Amos Goldberg, sử gia
người Israel:
“Điều
đang xảy ra ở Gaza là một cuộc diệt chủng,
vì Gaza không còn tồn tại”
Stéphanie
Le Bars
Sử gia Amos Goldberg, giữ
chức “Giáo sư Jonah M. Machover” (1) chuyên về Holocauste (2) tại Đại
học Do Thái ở Jérusalem, đã đăng tháng 4 năm nay trên báo mạng Local
Call [Tiếng Do Thái: Siha Mekomit] (*) một bài viết cáo
buộc Israel tiến hành “diệt chủng” ở Gaza. Ông giải thích luận điểm này trong
một cuộc phỏng vấn của báo Le Monde.
Tháng 4 năm nay, ông đã
cáo buộc Israel tiến hành “diệt chủng” ở Gaza. Điều gì đã đưa ông đến kết luận
ấy sáu tháng sau khi chiến tranh bắt đầu?
Tôi cần thời gian. Ngày 7
tháng 10 là một cú sốc, một thảm kịch, một cuộc tấn công rùng rợn. Một sự bi
thương, một tội ác như chúng ta chưa bao giờ thấy. Chỉ trong một ngày có 850
thường dân [tổng cộng 1.200 người] bị giết. Đàn ông, đàn bà,
trẻ con, kể cả trẻ sơ sinh, người già bị bắt làm con tin. Những kibboutz bị
hoàn toàn huỷ diệt. Rồi những câu mắt thấy tai nghe về cuộc tấn công hung tợn,
bạo lực tình dục, những tàn phá do Hamas gây ra. Trong số các nạn nhân có những
người tôi quen biết, nhiều người rất thân thiết. Có người chết, có người bị bắt
làm con tin, có người chỉ đủ sống sót. Tôi không có lời nào để giải thích sự
kiện này, để tiêu hoá nó, để vượt qua nó. Một sự kiện ghê tởm, đánh vào bản
thân, để lại chấn thương.
Tôi rất hiểu hoàn cảnh
chiếm đóng, chế độ apartheid [ở Cisjordanie] sự vây hãm [Gaza], nhưng
cho dù những điều ấy có thể giải thích những gì đã xảy ra, vẫn không thể biện
hộ cho những hành động tàn bạo tới mức ấy. Ngay sau cuộc tấn công, Israel đã
bắt đầu dội bom ồ ạt và chỉ trong vài tuần hàng ngàn thường dân ở Gaza đã chết.
Và đâu chỉ có ném bom. Những lời lẽ sặc mùi diệt chủng xuất hiện nhan nhản trên
các phương tiện truyền thông, trong công luận và giới chính trị: “Chúng ta phải
loại trừ chúng [người Palestine], bọn chúng là những con thú đội
lốt người” [Yoav Gallant, bộ trưởng quốc phòng, ngày 10.10.2023]; “Cả
một dân tộc phải chịu trách nhiệm” [Isaac Herzog, tổng thống Israel,
ngày 14.10.2023]; “Chúng ta phải ném một quả bom nguyên tử xuống Gaza [Amichai
Eliyahu, bộ trưởng di sản, ngày 5.11.2023]; “Đây là Nakba của Gaza
2023” [Avi Dichter, bộ trưởng nông nghiệp, ngày 11.11.2023, nhắc đến sự
kiện 700 000 người Palestine bị ép buộc di tản và trục xuất trong chiến tranh
1948, sau khi Israel được thành lập]. Những phát biểu tàn nhẫn tới mức tôi
không còn biết có thể nói gì.
Tháng giêng năm nay, cùng
với 50 học giả chuyên về Holocauste và Do Thái học, tôi ký một lá thư yêu cầu Yad
Vashem [Viện quốc tế tưởng niệm Holocauste ở Jérusalem] lên án
những phát biểu công khai hay gián tiếp kêu gọi diệt chủng ở Gaza. Nếu đây
không phải là bài học từ Holocauste thì chúng ta đã học được gì? Một trong
những văn kiện đầu tiên Israel thông qua lúc thành lập là Công ước về tội diệt chủng [9.12.1948],
trong đó một điều lệ khẳng định tội diệt chủng không chỉ là những tội ác đã gây
ra mà còn là xúi giục gây ra tội ác. Ở đây rõ ràng là vậy. Yad Vashem đã từ
chối không lên án những lời nói ấy.
Cho nên tôi bắt đầu viết,
ý thức rằng một thảm hoạ nhân đạo và chính trị hết sức lớn đang diễn ra trước
mắt chúng ta. Tháng 4 năm nay, tôi viết, bằng tiếng Do Thái, “Đây đúng là một cuộc diệt chủng”.
Bài này đã được dịch sang tiếng Anh và nhiều người đọc trên thế giới.
Điều gì đã đưa ông đến lời
cáo buộc này, đối với một nước “đã được thành lập để phản ứng với Holocauste”
như ông nhắc nhở?
Trước hết tôi muốn nói đây
là một điều hết sức đau đớn, vì tôi tố cáo xã hội của chính tôi, tôi tố cáo
chính tôi. Từ nhiều năm nay tôi đấu tranh chống lại sự chiếm đóng và chế độ
apartheid, và tôi biết Israel đã gây tội ác trong các vùng lãnh thổ bị chiếm
đóng, nhưng tôi chưa bao giờ tưởng tượng chúng ta có thể gây ra biển máu và độc
ác tới mức này, ngay cả sau ngày 7 tháng 10.
Có một định nghĩa pháp lý
về diệt chủng được Liên Hợp Quốc thông qua trong Công ước về tội diệt chủng,
tôi không phải là chuyên gia về luật, nhưng nhiều luật gia trên thế giới tin
rằng Israel đã vượt qua ngưỡng của tội diệt chủng, và tôi đồng ý với họ. Tháng
giêng năm nay, Tòa án Công lý Quốc tế đã khẳng định lời cáo buộc diệt chủng là
“có cơ sở”. Tháng 3, bà Francesca Albanese [báo cáo viên đặc biệt của
Liên Hợp Quốc về các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng] kết luận trong báo
cáo là có cơ sở hợp lý để nghĩ rằng Israel đã vượt qua ngưỡng của tội diệt
chủng. Hàng trăm học giả, trong đó có những luật gia, đã ký nhiều thư ngỏ bày
tỏ những quan ngại ấy.
Theo tôi, Israel tuyệt đối
có quyền tự bảo vệ sau ngày 7 tháng 10, nhưng đã phản ứng quá mức, gây ra tội
ác. Nền tảng của diệt chủng là gì? Theo Công ước về tội diệt chủng, đó là hành
vi được thực hiện với với ý định tiêu diệt toàn bộ hoặc một phần một quốc gia,
dân tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo. Điều cần nhấn mạnh là ý định huỷ diệt một tập
thể chứ không phải là giết tất cả mọi người trong đó. Không nhất thiết cứ phải
giết tất cả các thành viên của một tập thể mới là diệt chủng. Thảm sát Srebrenica, nơi
“chỉ” có 8 000 người đàn ông bị giết, đã được Toà án hình sự quốc tế về Nam Tư
cũ thừa nhận là một cuộc diệt chủng. Tháng 3.2023, Hoa Kỳ đã thừa nhận những hành vi
của Miến Điện đối với người Rohingya là một cuộc diệt chủng, dù rằng
đa số “chỉ” bị trục xuất và “chỉ có” 10 000 người của cộng đồng này bị giết,
theo Bộ ngoại giao Hoa Kỳ. Những thí dụ này khác với Holocauste hay cuộc diệt
chủng người Arménie là những mưu toan tiêu diệt toàn bộ hay gần hết một tập
thể. Người Israel và nhiều người khác nghĩ rằng mọi cuộc diệt chủng phải giống
Holocauste. Nhưng họ lầm.
Điều đang xảy ra ở Gaza là
một sự diệt chủng, vì Gaza không còn tồn tại. Lãnh thổ đã hoàn toàn bị huỷ
diệt. Mức độ và nhịp độ tàn sát không phân biệt vô số người vô tội, kể cả những
nơi Israel ấn định là khu vực an toàn, nhà cửa, cơ sở hạ tầng, hầu hết bệnh
viện và đại học bị phá huỷ, hàng ngàn người phải di tản, nạn đói được cố tình
tạo ra, giới tinh hoa bị trấn áp và chính sách phi nhân hoá người Palestine,
tất cả vẽ lên bức tranh một cuộc diệt chủng.
Vậy chúng ta thấy ở đây có
tàn phá, có chủ đích, và có một mô hình bạo lực dữ dội giáng liên tiếp lên
thường dân. Chúng ta vẫn chưa biết Toà án Công lý Quốc tế sẽ phán quyết thế nào
trong hồ sơ Nam Phi kiện Israel (3), nhưng nếu chúng ta đọc Raphael Lemkin [1900-1959],
luật gia người Ba Lan đã đặt ra thuật ngữ này và có vai trò then chốt trong
việc thiết lập Công ước về tội diệt chủng, thì đây chính là những điều ông phác
hoạ khi nói đến diệt chủng.
Cuộc tranh luận này có thể
diễn ra ở Israel?
Chưa. Nhưng tuy họ không
dùng cụm từ “diệt chủng” và không nghĩ là có xảy ra diệt chủng, càng ngày càng
có nhiều người ngờ vực về lý lẽ và mục
đích của cuộc chiến này. Nhiều người phản đối tiếp tục cuộc chiến vì
họ hiểu là phải chấm dứt nó các con tin mới được thả về. Chỉ một thiểu số nhỏ
chống lại cuộc chiến vì những lý do đạo đức, nhưng có lẽ có thêm một chút không
gian cho những tiếng nói đơn lẻ như tôi; tuy nhiên tôi có thể bị thực tế phản
bác.
Chiến tranh phải chấm dứt.
Ngay bây giờ. Mở rộng cuộc chiến sang Liban tai hại cho cả hai bên. Đồng nghĩa
với án tử hình cho các con tin và hàng ngàn người trong vùng.
Bạo lực của nhà nước
Israel và các người Do Thái lập cư ở Cisjordanie vẫn ác độc và sát nhân như
trước. Israel không có lời giải nào cho mọi vấn đề ngoài sự hung bạo. Giải pháp
duy nhất, mà Israel từ chối, là thừa nhận người Palestine với những quyền của
họ. Chúng ta không thể chờ phán quyết của Toà án Công lý Quốc tế. Sẽ quá muộn
cho người Palestine ở Gaza, người Israel, đối với dân chúng Liban và các con
tin. Với nhiều bằng chứng như thế trong tay, chúng ta phải dũng cảm nói đây là
một cuộc diệt chủng, ngay cả trước phán quyết, vì nếu không thì có ích gi mà
tìm hiểu về khái niệm diệt chủng, chỉ để thốt lên sau khi mọi sự đã an bài: “À
phải rồi, đúng là diệt chủng đó”? Lịch sử sẽ xét đoán như thế tình hình hiện
nay.
Tôi nghĩ có nhiều khả năng
Toà án Công lý Quốc tế sẽ thừa nhận là đã có xảy ra tội diệt chủng hay ít ra
những hành vi mang tính cách diệt chủng như tấn công bệnh viện Al-Shifa hoặc cố
ý làm cho hàng trăm ngàn người đói khát. Và tôi muốn nói thêm, cho những
ai không nghĩ đây là diệt chủng: thực tế không thể chối cãi là đã có những tội
ác chiến tranh nghiêm trọng và những tội ác phản nhân loại. Như vậy cũng đủ
trầm trọng rồi!
Từ sau ngày 7 tháng 10,
những lo sợ về sự tồn tại bị khơi lại ở cả hai bên: Holocauste cho người Do
Thái, Nakba cho người Palestine. Lo sợ đó có cơ sở không?
Không có đối xứng. Không
phải là một holocauste cho người Do Thái, vì Israel có một trong những quân đội
hùng mạnh nhất thế giới. Israel đã bị giáng một cú ngất ngư nhưng đấy không là
một mối đe doạ có thể so sánh với Holocauste. Còn đối với người Palestine,
Nakba vẫn tiếp tục từ năm 1948. Và sẽ phải trải qua nhiều thế hệ mới hồi phục
sau những cuộc tấn công vào Gaza.
Đây quả là một Nakba thứ
nhì. Người Palestine đang trải qua một cảnh ngộ gây rất nhiều chấn thương, đe
doạ cả sự sống còn của họ. Chúng tôi, người Israel, cũng trải qua một cảnh ngộ
gây rất nhiều chấn thương, nhưng theo tôi, [chúng tôi] không
phải [đứng trước] một đe doạ sống còn.
Những tội ác gây ra ngày 7
tháng 10 tàn bạo như chưa từng thấy. Quy mô cuộc phản công của Israel cũng thế.
Giải thích thế nào sự phi nhân hoá ở cả hai bên?
Tôi không phải là chuyên
gia về xã hội Palestine. Tôi không thể trả lời điểm này. Nhưng chiến tranh bao
giờ cũng đi cùng với phi nhân hoá phía bên kia. Và chúng tôi sống trong chiến
tranh từ mấy chục năm nay, từ 1948. Israel không thể biện hộ cho Nakba, sự
chiếm đóng, chế độ apartheid và bây giờ chiến tranh diệt chủng ở Gaza, mà không
phi nhân hoá người Palestine. Nếu chúng tôi công nhận họ là con người, chúng
tôi không thể bắt họ phải chịu những điều ấy. Sự cố ngày 7 tháng 10, với sự tàn
bạo và quy mô khủng khiếp, đã đẩy nhanh hơn quá trình này.
Khi anh phi nhân hoá người
khác, anh tự cho phép anh hành động vô nhân đạo. Và hiện tượng này càng tồi tệ
hơn giữa giới trẻ. Nhiều thế hệ sinh ra sau năm 1967 và chỉ biết Israel như một
nước thi hành chiếm đóng; ngay cả tôi, sinh năm 1966. Nhưng đối với những người
sinh sau cuộc Intifada thứ nhì [2000-2005], khái niệm hoà bình là
cái gì hoàn toàn xa lạ. Lúc họ trưởng thành, không có thảo luận về hoà bình hay
đàm phán đúng nghĩa, một bức tường phân chia được dựng lên... Và sau bấy nhiêu
năm tháng với những chính quyền cánh hữu, một phần do Benyamin Nétanyahou lãnh
đạo, hậu quả ra sao ai cũng thấy.
Lại còn có quan điểm
Israel hùng mạnh – ít ra cho đến ngày 7 tháng 10- việc gì phải nhượng bộ và từ
bỏ những đặc quyền của mình? Năm 2018, Israel đã ban hành đạo luật về “Quốc gia dân tộc” [qui
định quyền tự quyết trong quốc gia Israel chỉ dành cho dân tộc Do Thái],
một văn bản chỉ liên quan đến chúng tôi [người Do Thái]. Người
Palestine không thuộc vào dân tộc được xem như nền tảng của quốc gia, và do đó
sẽ luôn bị phân biệt đối xử, ngay cả trong quốc gia Israel. Trong bối cảnh ấy,
những người trẻ [Do Thái] khó mà nhân tính hoá người
Palestine, và đây là một thảm kịch rất lớn.
Trong quyển « The Holocaust and the
Nakba. A New Grammar of Trauma and History »,, cùng viết với chuyên gia
chính trị Bashir Bashir (Columbia University Press, 2018), ông cổ vũ cho sự
đồng cảm lẫn nhau giữa người Israel và người Palestine. Điều này còn khả thi
không?
Với Bashir Bashir, bạn
tôi, chúng tôi đề nghị một tầm nhìn: một “chủ nghĩa hai dân tộc bình đẳng”,
trong đó người Do Thái và người Palestine có thể chung sống “từ sông đến biển”
(4), trên cơ sở bình đẳng trọn vẹn, cả hai dân tộc đều hưởng tất cả các quyền
cá nhân. Không bên nào có đặc quyền, như người Do Thái hiện nay. Chúng ta cần
phải có không chỉ đồng cảm mà còn một “sự lung lay thấu cảm” qua đó thông cảm
nỗi đau của người khác khiến ta nhìn lại, suy nghĩ lại những gì là căn bản của
chính mình. Trong cái biển máu hiện nay, những ý tưởng này giống như khoa học
giả tưởng.
Ông nghĩ thời gian tới sẽ
ra sao?
Máu đổ, máu đổ, và máu đổ.
Tôi không thấy gì khác ngoài một tương lai kinh hoàng. Nhưng chúng ta phải bám
víu vào nhân tính chung của chúng ta và hi vọng một ngày, chưa biết bao giờ,
mọi chuyện sẽ khác.
Stéphanie
Le Bars
Đỗ Tuyết Khanh dich
No comments:
Post a Comment