Monday, October 2, 2017
Thư gửi các bạn
thời trẻ dại
(Trường Tiểu Học
Thạnh Mỹ Tây II-Thị Nghè)
Các bạn rất cũ. Lâu quá không gửi thư
cho nhau, có lẽ cũng do chúng mình ở xa nhau quá, tuổi mỗi ngày một nặng thêm
nên lười, rồi lúc nhớ lúc quên, cứ nói sẽ viết, tiếp theo là sẽ quên. Hôm nay
bỗng nhớ đến các bạn, và thấy cần phải viết để chia sẻ với các bạn một điều mà
chúng ta đã và vẫn chia chung. Cả hai tuần nay từ lúc bắt đầu chiếu phim về
Chiến Tranh Việt Nam trên truyền hình, tôi nhận được rất nhiều bài viết, nhiều
phản ứng về bộ phim này.
Chúng mình là bạn từ thời Tiểu Học
1954, theo cha mẹ chạy Cộng Sản vào Nam. Đi ra từ chiến tranh, sống trong chiến
tranh, rồi lại chạy ra khỏi chiến tranh. Chặng đường hơn 20 năm thật quá dài,
nhưng khi đã hết chiến tranh (ít nhất là với chúng mình), sống rải rác trên địa
cầu hơn 40 năm thanh bình, vẫn chưa thoát ra khỏi hai chữ “chiến tranh”.
Đọc những bài viết nhận định về bộ
phim 10 kỳ liên tiếp này. Nhiều người phân tích rành rọt về Cộng Sản, về Quốc
Gia, về Đồng Minh Mỹ rất chi tiết, rất tỉ mỉ. Dù phân tích đó rất nông cạn hay
rất thuyết phục, nhưng cuối cùng còn lại hai chữ “Chiến Tranh”, dù nhìn bằng
góc cạnh nào chăng nữa cũng vẫn đau lòng.
Những con số người chết cho cuộc
chiến này, con số trận đánh hai bên, con số những trận bom rải thảm. Con số
người chết trong “Trại Cải Tạo”, chết “Vượt Biên Giới” chết “Vượt Biển” và Đồng
Minh chết cho đất nước bạn. Có cố nói thế nào, biện minh ra sao, thì cái phần
đau đớn hậu quả đó không lấy bất cứ “lý lẽ” gì mà cứu vãn được. Chỉ có thể kết
luận là “rùng mình”
Cái hậu chiến tranh
giống như khói hun vào phổi chúng ta, không thể nào lấy ra được. Chúng ta sống
với buồng phổi đó cho đến lúc chết .
Chiến tranh Nam - Bắc Việt Nam dù
được suy diễn cách nào, dù đặt tên cuộc chiến là gì ta cũng thấy rõ ràng là
“Huynh Đệ Tương Tàn”. Những người lính sau một trận chiến, chết nằm úp mặt, lật
lên máu đỏ da vàng, nếu còn thoi thóp sẽ nói cùng ngôn ngữ với ta. Cộng Sản hay
Quốc Gia lúc đó chỉ còn trơ ra một hình hài “Việt Nam” khốn khổ. Ta chỉ còn
biết thốt lên:
“Trời ơi những xác
thây la liệt
Con ai, chồng ai,
anh em ai?” (Tô Thùy Yên)
Từ lúc nào chúng ta đã khóc cho chiến
tranh và chúng ta sẽ lại phải khóc vì chiến tranh vào lúc nào nữa, trong khi
thế giới càng ngày càng hoảng loạn, căng thẳng. Có thể chúng ta không còn cơ
hội khóc nữa vì chúng ta đã quá già nua và sắp ra khỏi đời sống, nhưng con,
cháu, chắt chúng ta liệu có bình yên mãi được không?
Tôi nhớ lại một bài Thơ khóc con của
Rudyard Kipling, nhà văn, nhà Thơ người Anh nổi tiếng với cuốn tiểu thuyết cho
trẻ em,The Jungle Book(1894), con trai
ông, Thiếu úy John Kipling của quân đội Anh đã tử trận trong Trận Loos, ở vùng
Artois của Pháp trong Đệ I Thế Chiến và không tìm thấy xác. Ông không khóc
riêng cho con trai mình, mà cho tất cả những người con đã hy sinh trong Đệ I
Thế chiến (*)
That flesh we had
nursed from the first in all cleanness was given…
To be blanched or
gay-painted by fumes – to be cindered by fires –
To be senselessly
tossed and retossed in stale mutilation
From crater to
crater. For this we shall take expiation.
But who shall
return us our children?
Da thịt con tinh
khiết
Cha mẹ nuôi ấu thơ
Khói đã nhuộm xám
đen
Bom đốt thành tro
bụi
Xác con ném qua lại
Trên những hố những
hầm
Xác con đã nổ tung
Chúng ta sẽ đền bù
Những điều đã xẩy
ra
Nhưng ai sẽ trả lại
Con thân yêu cho ta
(tmt dịch)
Người chồng chết, người vợ trẻ còn
đàn con nhỏ để tìm niềm an ủi trong vất vả hy sinh. Người con chết, cha mẹ
không tìm ra điều gì thay thế vào được.
Có người nói “Bộ phim Vietnam War chỉ
cốt chống chế cho thể diện của Mỹ hơn là sự trung thực cho cuộc chiến.”
Hãy đọc một bài Thơ về sự trung thực
trong cuộc chiến này của Kyle Schlicher (USMC 5/15/1968) Một người lính trong
quân đội Đồng Minh Mỹ.
They Didn't Know
he lay there
under the sun
dried blood on his
lips.
the heat was
oppressive.
his clothes were dusty,
dark blotches on
them.
i could see the
ants
moving,
entering him
and
exiting him.
how i hate this
place!
how i hate the
people
who are responsible
for all this
unbelievable madness.
how i hate myself
for volunteering to
be here!
i watched the ants
crawling
over the body.
i wanted to hate
them too!
but
they didn't know
and
the hating
had to stop
somewhere.
Chúng Chẳng Biết Gì
Đâu
chàng nằm đó
dưới mặt trời
máu khô trên môi
sức nóng nung người
quần áo chàng bẩn
thỉu
bầm đen từng mảng
tôi thấy những con
kiến
chuyển động
chúng vào trong
chàng
rồi
ra khỏi chàng
sao tôi ghét nơi
này thế
sao tôi ghét mấy
người này thế
mấy người có trách
nhiệm
cho những điên
cuồng không tưởng
sao tôi ghét cả
chính tôi thế
sao lại tự nguyện
tới đây
tôi nhìn những con
kiến bò
qua lại trên xác
chàng
tôi muốn ghét luôn
chúng nữa
nhưng
chúng chẳng biết gì
đâu
và
cái sự ghét này
phải chấm dứt ở một
nơi nào đó.
Hai đoạn của hai bài thơ tiếp theo,
của người lính miền Nam và một của người miền Bắc.
Hình như cây súng
con lạ lắm
Sao nó run lên khi
đạn lên nòng
Tâm hồn nó như tâm
hồn con vậy
Một kẻ nằm, kẻ
đứng, xót xa không ?
Trước mặt con:
những ngọn đồi cát máu
Đêm thì thầm cùng
những nấm xương
Ôi, trái tim con
mãi tôn thờ Má
Đã dạy con hai
tiếng yêu thương.
(Nguyễn dương Quang trong bài Đêm
cuối năm viết cho Má )
Buổi chiều sau
chiến tranh
Ngày trở về
anh đi lệch một bên
Một ống quần
phất phơ trong
gió...
Bà mẹ nghèo lẩy bẩy
Ra ngõ đón con
Con dìu mẹ, mẹ dìu
con
Hai dấu chấm khép
chiều nắng lửa...! (Trần Sĩ Tuấn)
Các bạn của tôi ơi!
Ngày 23 tháng 10 này tôi sẽ nhận lời mời của Thư Viện Seattle đến nghe bà Lynn
Novick nói về công việc làm một cuốn phim về chiến tranh thế nào. Tôi sẽ đọc
một bài thơ về cảm nghĩ của mình khi xem phim về chiến tranh (Theo yêu cầu của
Thư Viện). Tôi sẽ không dự buổi bình luận về cuộc chiến trong phim, đó không
thuộc khả năng hiểu biết của tôi, vì ngay cả Ken Burns và Lynn Novick
những người hàng đầu về làm phim chiến tranh đều thừa nhận “Cuộc chiến
Việt Nam” là chủ đề khó khăn và phức tạp nhất mà họ từng thực hiện khi có quá
nhiều luồng quan điểm, quá nhiều cách nhìn nhận từ các đối tượng khác nhau. Khi
được hỏi vì sao lựa chiến tranh Việt Nam, mở lại những hồi ức đau thương và
tranh luận cay đắng không có hồi kết, hai đạo diễn cho rằng “Việt Nam” vẫn là
công việc còn dang dở của nước Mỹ. Không có ai thực sự hiểu cuộc chiến đã xảy
ra thế nào và những người trải qua nó phải chịu đựng ra sao.
(Trích:
Nghiencuuquocte.net)
Đến bao giờ nước Mỹ
mới hết những công việc dang dở này trên thế giới?
Những người bạn
thời “Tiểu Học” của tôi. Những: Nam, Giáo, Tâm, An, Hà 1, Hà 2, Bình, Hạnh,
Giao ơi! Hãy yêu thương Việt Nam mình với trái tim của thời tuổi dại, hãy cố
quên đi những người thân yêu trong gia đình mình, những người bạn của mình đã
chết ở Bắc hay Nam, vì AK-47, vì B-40, hãy cố tha thứ và thương yêu như trong
một câu Thơ của người góa phụ trẻ miền Nam đã viết:
Anh tặng em mùi máu
Trên áo trận sa
trường
Máu anh và máu địch
Xin em cùng xót
thương.(tmt)
Trần Mộng Tú
(*) Joshep Rudyard
Kipling 1865-1936- Nobel Văn Chương 1907
9/30/2017
No comments:
Post a Comment