---------- Forwarded message ----------
From: Nghia Nguyen
NHỮNG BÀI HỌC ĐỂ
ĐỜI
1. Trí thức NGUYỄN MẠNH TƯỜNG
Nói tới tên ông, nhiều người Việt
nghĩ ngay tới việc ông đỗ hai bằng tiến sĩ, Văn và Luật tại Montpellier, Pháp
trong một năm, lúc mới 23 tuổi. Ngoài ra, người ta không nhớ ông đã làm được
công nghiệp gì tương xứng với tài năng và công lao học tập ! Điều đó không có
chi lạ. Ông đã theo “Hồ tặc” đi kháng chiến, và kể từ lúc ấy, đời ông kể như đã
đi vào ngõ cụt. Đã có quá nhiều sách báo nói về ông Nguyễn Mạnh Tường và những
tháng ngày thê thảm của ông và gia đình ông, dù bản thân ông chưa phải là trái
chanh đã hết nước trong tay Cộng. Nếu không đọc cuốn sách Un Excommunié do
chính ông viết, chúng ta khó tưởng tượng ông “lưỡng khoa tiến sĩ” này lại bị
đau nhục dưới tay “vượn người” như thế ! Nhưng vì đâu nên nỗi ?
Hoàn cảnh lịch sử ? Lòng yêu nước,
hay sự bịp bợm của cộng sản đã đưa ông vào thảm trạng ?
Năm 1936, cậu thanh niên 27 tuổi, với
hai bằng tiến sĩ từ mẫu quốc hồi hương, tương lai sáng rỡ như mặt trăng mặt
trời. Cậu trở thành giáo sư trường Lycée du Protectorat tức trường Bưởi, rồi
cậu mở văn phòng luật sư tại hai biệt thự tại thủ đô Hà Nội. Khi cộng sản cướp
chính quyền, cậu hào hứng hiến luôn cả hai biệt thự cho nhà nước. Kháng chiến
bùng nổ, cậu không ngại gian lao, xách khăn gói vào Khu Tư, tức Thanh Hóa theo
“Bác.”
Chiến tranh tạm ngừng năm 1954, nhà
trí thức lúc ấy đã mỏi mệt vì những điều tai nghe, mắt thấy về Đảng và “bác”,
nhưng cổ đã vướng tròng, khó bề thoát ra. Trở về Hà Nội, ông được cộng sản ấn
vào tay một lô chức tước “phó”, vô danh và… vô thực luôn: Phó chủ tịch Hội Luật
Gia Việt Nam, phó Trưởng khoa Đại Học Sư Phạm, thành viên Hội Hữu Nghị Việt-Xô,
v…v..
“Đó là các chức vụ hoàn toàn có tính
cách lễ nghi, không hiệu năng mà cũng chằng có thực quyền, đó là những chức vụ
mà tôi chỉ là kẻ dư thừa”.
Năm 1956, có phong trào Đòi tự do,
dân chủ của các báo Nhân Văn, Giai Phẩm. Báo Nhân Văn đăng bài phỏng vấn ông
Nguyễn Mạnh Tường. Ông vạch trần tính chất phản dân hại nước của cộng sản:
“Đảng Viên đảng Lao Động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tính thần dân chủ,
xa lìa quần chúng, tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với mình… ”
Dĩ nhiên, ông cũng còn tin cộng sản
có thể sửa đổi được, và ông đề nghị những biện pháp sửa đổi ! Ngày nay, dù đã
có một tay cộng sản gộc, chính tông, là Boris Yelsin bỏ đảng và tuyên bố
“Cộng Sản không thể sửa đổi ”
Nhiều ông trí thức của ta vẫn tin
rằng có thể dùng kiến nghị, thư ngỏ… để thay đổi chính sách của Cộng sản. Cộng
sản dĩ nhiên không thèm đếm xỉa gì đến những đề nghị của ông Tường; nhưng lãnh
đạo Cộng sản lại dương những con mắt cú vọ quan sát, nhằm “chiếu tướng” ông trí
thức. Ngày 30 tháng 10 năm 1956, ông luật sư, giáo sư, kiêm luôn bao nhiêu chức
Phó và Thành viên các hội, đọc một bài diễn văn tại cái gọi là Mặt Trận Tổ
Quốc, phân tích những khốc hại đẫm máu của việc Cải Cách Ruộng Đất, và đề ra
phương hướng để tránh mắc lại! Ông Trí thức lúc ấy chắc vẫn tin là cộng sản mắc
“sai lầm”, chứ không phải là chúng chủ tâm và tỉ mỉ hoạch định đủ phương kế để
giết người và cướp đất ruộng. Sau bài diễn văn với những đề nghị này, nọ của
ông, dây thừng quanh cổ ông được cộng sản xiết chặt lại. Bao nhiêu chức tước vớ
vẩn của ông được gỡ sạch. Ông bị đưa ra đấu tố tại trường Đại Học cho học trò
ông xỉ vả, mắng mỏ; ông bị ra trước Mặt Trận Tổ Quốc để các “đồng chí” của ông
đấu đá. Ông bị các đảng viên đảng Xã Hội, một đảng bù nhìn do cộng sản nặn ra
để trang trí cho chế độ, đấu tố ông lần chót. Ông chống trả rất can trường, với
lập luận sắc bén của một luật sư có tài. Nhưng rồi ông đau khổ nhận rằng:
“Con cừu thì không thể lý luận với
một con chó sói”.
Số phận ông đã được Cộng đảng quyết
định: Bỏ cho chết đói giữa một sa mạc hận thù không lối thoát. Ông than thở
“Tôi đã là kẻ lữ hành trong chuyến đi
qua sa mạc kéo dài từ năm 1958 đến năm 1990, hơn ba mươi năm dài đằng đẵng !
Chìm trong vùng cát của sa mạc tuyệt vọng làm cạn khô dòng nước mắt, tôi đã lê
tấm thân bị tra tấn bởi thiếu thốn cô đơn với quả tim rướm máu bởi nỗi buồn
chua cay và vị đắng của mật !” Trong ba mươi năm dài ấy, nhà trí thức sống
ra sao ?
Ông kể lại:
“Trước tiên, loại bỏ ngay buổi ăn
sáng, một thói quen xa hoa của những người tư sản. Tiếp đến, cá thịt từ từ biến
mất trong những buổi ăn trưa và tố́i. Khẩu phần cơm rau mỗi ngày một ít đi, và
đến lúc mỗi ngày chúng tôi chỉ có một bát cháo để ăn. Vợ và con gái tôi ốm đi
trông thấy. Bao nhiêu sáng láng đã biến mất trên khuôn mặt dài ra vì ốm đói”.
Trong cơn khốn cùng như thế, gia đình
ông Tiến sĩ “may mắn” có được một con gà mái “mắn đẻ một cách đáng ngạc
nhiên ”. Mỗi ngày con gà cho một cái trứng, và mỗi người trong gia đình
thay phiên nhau hưởng. Muốn cho gà đẻ trứng, thì phải cho nó ăn. Khốn nỗi người
còn sắp chết đói, lấy đâu gạo, bắp cho gà ! Nhà trí thức ‘phát huy sáng kiến’:
“mỗi ngày, vào lúc hoàng hôn, khi chợ
đã vắng người mua bán, tôi lượn quanh để lén nhặt những mảnh rau vụn, tránh
không để người qua đường nhìn thấy, mang về nuôi nó”
Thê thảm không còn gì để nói ! Nhưng
con gà, dù mắn đẻ, tất cũng không nuôi sống nổi cả gia đình của ông tiến sĩ.
Ông phải đau khổ, năn nỉ những kẻ có tiền để họ mua những thứ ông có thể vơ vét
ở trong nhà: sách vở, quần áo của ông, son phấn, tóc giả của bà, muỗng nĩa
trong bếp… Giống hệt tình cảnh của toàn dân miền Nam năm 1975 khi được CS Hanoi
“giải phóng.” Ba mươi năm vật lộn mỏi mòn, chỉ để khỏi chết đói !
Cộng sản đã trả công cho sự nhiệt
thành và công lao hạn mã của ông bằng cái đói và nhục. Nhiệt thành, say
sưa, vì khi Cộng mới nổi lên, ông đã đem tất cả nhà cửa hiến dâng cho đảng.
Công lao hãn mã, vì ông đã lặn lội sang tận thủ đô Bruxelles của Bỉ, năm 1956,
đem tài hùng biện, chứng minh với Hiệp Hội Luật Gia Dân Chủ thế giới, là Bắc
cộng có “chính nghĩa” khi dùng súng đạn để “giải phóng miền
Nam ”. Nhưng xem tư cách và sự phản ứng can trường của ông trong suốt 30
năm bị Cộng mưu dìm cho chết, chúng ta ngậm ngùi thương ông hơn là oán giận.
Ông đã lạc đường vào lịch sử và bị vây bọc trong hoàn cảnh khó khăn. Không
khuất phục được ông, bọn Cộng vô học ghen, tức, đầy đọa và hạ nhục ông.
So sánh với những anh “trí thức” hải
ngọai ngày nay, từng kinh hoàng bỏ chạy khi cộng sản tới, lại được chứng kiến
sự tan rã tận gốc của cái chủ thuyết giết người tàn độc, mà vẫn xun xoe đưa đầu
cho cộng sai khiến, chúng ta phải kinh ngạc về sự “khả úy” của các “trí thức”
hậu sinh. Ông Nguyễn Mạnh Tường có lẽ đã trả được mối thù với bọn việt cộng
bằng cách mô tả sự tàn độc của chúng trong hai cuốn Hồi Ký mà ông để lại cho
đời.
Ông đã thảnh thơi từ giã cuộc đời
ngày 13 tháng 6 năm 1997.
2. Trí thức DƯƠNG QUỲNH HOA
Bà Dương Quỳnh Hoa sinh trưởng trong
tầng lớp thượng lưu của xã hội Việt Nam. Bà theo học y khoa tại Saigon rồi sang
Pháp năm 1948 học tiếp và đỗ bác sĩ năm 1953. Ăn phải bả Cộng
sản, bà liên lạc với Cộng sản Pháp, gia nhập Cộng đảng vào cuối thập niên 1950
và hoạt động cho Cộng trong thời gian ở Pháp từ 1948 đến 1954. Sau 1954, bà về
Saigon nằm vùng và do thám cho Cộng. Năm 1960, được bọn Bắc cộng giựt dây, bọn
theo Cộng miền Nam thành lập Mặt Trận Giải Phóng. Bà Hoa là một sáng lập viên
của cái Mặt Trận này. Năm 1968, sau vụ đại bại của cộng quân, mụ cùng chồng
trốn ra bưng với Việt cộng, và được cho làm Bộ Trưởng Y Tế. Trong thời gian ở
trong bưng, đứa con trai nhỏ của mụ đã chết vì bệnh sưng màng não. Chồng bà là
Huỳnh Văn Nghị được Cộng dụ dỗ cho nhập Đảng; nhưng ông Nghị nhận rõ bộ mặt
thật của bọn giải phóng, nên tìm cách khước từ “vinh dự” đó. Năm 1975, sau khi
chiếm được Miền Nam, bọn Bắc Cộng ra tay xóa sổ cái Mặt Trận Giải Phóng.
Những anh chị trót bán linh hồn cho
quỷ trong Mặt Trận, như các anh Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Trương Như
Tảng… và bọn lủng lẳng đứng giữa như Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Lý Quý Chung,
Lý Chánh Trung… đều vỡ mặt, tẽn tò như một lũ con nít bị lừa không được ăn kẹo
! Chính bà Hoa sau này đã thú nhận việc đi theo Cộng là một ảo tưởng chính trị
trong đời bà. Ngày 17 tháng 10 năm 1996, khi được tờ báo Far Eastern Economic
Review phỏng vấn:
“ Quel est l’évenement le plus
marquant pendant les 50 années passées ?”
Bà trả lời:
“L’effondement du mur de Berlin qui a
mis un terme à la “grande illusion”
dịch tạm: Biến cố nào được kể là
nổi bật nhất trong 50 năm qua ?
Bà DQH: "Đó là sự sụp đổ
bức tường Bá Linh và chấm dứt một “ảo tưởng lớn ”
Khi được Stanley Karnow phỏng vấn về
sự thất bại của cộng sản Việt nam, bà nói:
“Tôi đã là người cộng sản cả đời tôi.
Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản và sự thất bại
của nó, quản trị kém, tham nhũng, đặc quyền, áp chế, lý tưởng của tôi đa
hết”.[I have been a communist all my life, but now I’ve seen the realities of
Communist, and it is a failure - mismanagement, corruption, repression. My
ideals are gone”]
Cuối thập niên 1970, bà nói với
Nguyễn Hữu Thọ:
“Tôi và anh chỉ là những kẻ bù nhìn,
là những món đồ trang sức rẻ tiền. Chúng ta không thể nào phục vụ một chế độ
thiếu dân chủ và không luật lệ.”
Khi được phỏng vấn về bọn lãnh đạo
Việt cộng, bà lạnh lùng trả lời:
“Đó là những kẻ ngu si đần độn,
bởi vì họ là cộng sản”.
Trong những câu bà Hoa nói trên,
chúng ta nên chú ý đến câu
“Nhưng bây giờ khi chứng kiến những
sự thật về chủ nghĩa cộng sản…”
Đó chính là một lời thú nhận là:
dù học hành nhiều như bà, được sống
trong một nước tự do như nước Pháp, có thừa phương tiện tìm hiểu, nghiên cứu,
bà đã không biết gì về chủ nghĩa cộng sản !
Ngày 25/2/2006, người nữ cán bộ cộng
sản đã góp công không nhỏ cho cộng sản đặt cái ách khốn cùng trên đầu đồng bào
của bà, lặng lẽ bị các oan hồn chết vì giặc cộng, đưa về trước Diêm Vương để
nghe phán xét tội lỗi. Cái bạo quyền bà đã hy sinh hết tuổi thanh xuân và tài
năng để dựng nên nó, không có được một lời nói về bà. Mang “ảo tưởng ”, tự hiến
mình làm “bù nhìn, đồ trang sức rẻ tiền ”, “ không biết sự thật về cộng sản mà
vẫn theo chúng” thì kết quả đương nhiên chỉ có như thế !
Các vị trí thức tiền bối như Nguyễn
Mạnh Tường, Dương Quỳnh Hoa, do hoàn cảnh lịch sử hoặc do sai
lầm nhất thời, đã có lúc theo Cộng hay thân Cộng. Nhưng khi nhận rõ bộ mặt phản
dân hại nước của Cộng sản, họ đã có phản ứng quyết liệt. Trí thức Nguyễn
Manh Tường đã dõng dạc tuyên bố:
“ Tôi không hề tham gia mặt trận
Việt Minh. Bao giờ tôi cũng là một người yêu nước, luôn luôn ưu tư đến việc
giành lại độc lập cho đất nước. Tuy nhiên tôi tự xác định cho mình một vị trí
là làm một người trí thức. Mà người trí thức, muốn độc lập, thì không nên tham
chính. Người trí thức phải đứng về phía nhân dân, chứ không đứng về phía nhà
cầm quyền.”
Ông cũng đã can đảm nhận chịu 30 năm
đọa đầy thê thảm chứ không đầu hàng Cộng. Khi thoát khỏi sự kiềm chế của Cộng
sản, ông đã viết hai cuốn sách:
Những trí thức nói trên, nhất là tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường,
vẫn còn lưu lại trong lòng chúng ta sự ngậm ngùi thương tiếc.
--