Jun 19,2008
Tờ Sàigòn Tiếp thị số ngày 29/4/2008 có nhiều bài viết đặc biệt đánh dấu kỷ niệm 33 năm chấm dứt chiến tranh. Bài đầu tiên là của nhà văn Bảo Ninh với tựa đề "Lần đầu tiên gặp người Sàigòn", nói về cảm nhận của ông là một bộ đội trong giờ phút hấp hối của miền Nam, trong đó có những đoạn sau :
Lần đầu tiên, gặp người Sài Gòn nhưng quả là tôi thấy sao mà dân tình bình thản đến thế. Nói là bình thản cũng chưa thật đúng, dửng dưng ơ hờ bàng quan vô sự cũng chẳng phải. Một thái độ chung rất khó diễn đạt bằng lời, chỉ có thể nói là hết sức tương phản với toàn bộ biến cố lớn lao đang đến với vận mệnh thành phố và với từng số phận con người. (…)
Dọc một dải Bà Quẹo – Bảy Hiền chìm trong bóng tối nhập nhoà ánh lửa cháy nhà, nhưng các khu phố đằng sau nhà thương Vì Dân và rộng ra là toàn bộ thành phố vĩ đại thì vẫn như thể muốn bất chấp tất cả, vẫn cứ rực sáng lên ánh đèn điện (…)
Đạn cối 106 và 81 ly từ sân bay nã ra đường Lê Văn Duyệt, đạn cối 82 từ đường Lê Văn Duyệt câu vào sân bay, đường đạn đối đáp qua lại sát sàn sạt các mái nhà, hú lên rùng rợn. Dân tình mặc kệ. Người ta vẫn nhậu, vẫn tụ hội ở tiệm đầu hẻm nhâm nhi ly cà phê và tán dóc, các bà vẫn xách ghế ra đầu hè hóng gió và buôn chuyện. (…)
Đọc xong thấy lòng buồn tê tái. Lắm lúc những tư tưởng yếm thế lại trở về : thua là phải. Trong khi bao người đang nằm sương gối đất thì một bộ phận không nhỏ chỉ chăm lo cho tư lợi. An nguy mặc ai, miễn là mình và gia đình bình yên sung túc là đủ. Cái ý nghĩ ấy nó dằn vặt tôi suốt ngày.
Nhưng đến buổi chiều, nỗi buồn ấy chợt biến mất và nhường lại cho một nỗi buồn khác còn lớn hơn gấp bội.
* * *
Vào chiều ngày 29/4/2008, một biến cố lớn xảy ra tại Sàigòn : cuộc rước đuốc thế vận Bắc Kinh 2008. Lớn vì nó chưa từng xảy ra trong quá khứ, lớn vì những xô xát xảy ra trên hành trình các nước ngọn đuốc từng đi qua như London, Paris, San Francisco, Canberra, Nagano, Seoul…và sau cùng, lớn vì lúc này việc Hoàng Sa, Trường Sa vẫn còn đang âm ỉ.
Có mặt ngay tại lúc cử hành nghi lễ trước nhà hát thành phố vào lúc 18g, chúng tôi đã không mấy ngạc nhiên khi thấy sự hiện diện đông đảo của công an áo xanh lẫn "bồ câu" (công an giao thông) cộng thêm một lực lượng đông đảo thanh niên tình nguyện được "lùa" từ các trường đại học cũng như dân phòng, chúng tôi cũng không mấy ngạc nhiên khi thấy bà con đã tụ tập khá đông trên hai bên đường Lê Lợi và Pasteur, chúng tôi cũng không mấy ngạc nhiên khi thấy không khí chuẩn bị có vẻ khá căng thẳng. Tuy nhiên cái ngạc nhiên mới dữ dằn và đáng nói hơn nhiều.
Trước tiên là cái rừng cờ Trung Quốc (TQ). Nhìn đâu đâu cũng thấy cờ của họ. Điều này có lẽ ít gây xốc vì cờ TQ và VN giống nhau như hai giọt nước. Nếu đó là cờ của bất kỳ nước nào khác thì có lẽ mọi người sẽ nghĩ khác, nhưng sau khi "lấy lại bình tĩnh" thì lại một cú xốc khác. Nhìn quanh quất đâu đâu cũng thấy người Hoa, đặc biệt là ở những địa điểm quan trọng như góc ngã tư hoặc sát lề đường.
Tại Sân Vận động Quân khu 7 là điểm đến của ngọn đuốc thì cảm nhận trên lại càng rõ hơn. Những chiếc áo trắng in logo Thế Vận Hội và những hàng chữ Hoa hiện diện ở khắp nơi. Họ đứng thành từng nhóm hai bên đường Hoàng Văn Thụ và liên tục hô các khẩu hiệu bằng tiếng Hoa "Chúng của, chúng của" cái gì đó, mà mãi sau này tôi mới biết đó là "Trung Quốc muôn năm".
Những người đứng xem chung quanh cho biết "tụi nó" (ám chỉ nhà nước TQ) đã huy động rất nhiều công nhân viên trong các xí nghiệp đến từ các khu công nghiệp Đồng Nai và Bình Dương. Đậu rải rác chung quanh chợ Bến Thành là vô số xe khách mang biển số hai tỉnh này.
Khi ngọn đuốc thế vận đi ngang qua, Ban Tổ Chức yêu cầu đám Thanh niên tình nguyện đang làm rào chắn phải quay mặt vào trong. Cảnh sát VN mặt đỏ ké luôn miệng quát tháo bà con đứng hai bên đường. Mặt khác những quyết định của họ khá bất nhất, lúc thì cho đứng lúc thì bị đuổi; lúc thì quay ra ngoài đường lúc thì quay vào trong lề. Làm như mỗi lần có tiếng còi xe của một quan chức thì họ phải làm một cái gì đó cho nó có vẻ nghiêm trọng thì phải. Nhìn họ tôi nghĩ rằng họ là công an TQ hơn là công an VN. Giá mà có ai đó mặc cái áo thun mang hàng chữ "Beijing 2008 : No" thì sẽ bị công an VN tẩn nhừ đòn trước khi an ninh TQ ra tay. Trong cái không khí đó thỉnh thoảng leo lét một tiếng nói bực tức. Một cô gái tay cầm máy quay miệng la "Việt Nam ! Việt Nam". Tiếng la của cô gái thực như muối bỏ biển y như sự lạc lõng của lá cờ đỏ sao vàng giữa rừng cờ, rừng biểu ngữ và rừng Hoa kiều. Rất nhiều người cũng có cảm giác là đang ở Quảng Châu hay Phúc Kiến gì đó.
* * *
Không riêng gì tôi, phản ứng của người Việt chung quanh là rất bất bình. Ban đầu tôi tự hỏi :"tại sao lại phải bất bình khi họ (người TQ) biểu lộ niềm vui một cách chính đáng?". Nhưng nghĩ lại, người Việt có ai bất bình khi người Pháp, người Mỹ, người Hàn họ vui mừng chào đón năm mới trên đường phố Sàigòn đâu, rồi hồi World Cup 2004 có ai bực tức trước sự phấn khích của cộng đồng Ý đâu ? vậy mà tại sao chúng ta lại phản ứng với cộng đồng Hoa kiều ? Câu trả lời quá ư đơn giản : người Việt còn chưa nguôi vụ Hoàng Sa, Trường Sa mới xảy ra cách đây vài tháng.
Trong 19 nước mà ngọn đuốc đi qua là Kazakhstan, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Anh, Pháp, Mỹ, Argentina, Tanzania, Oman, Pakistan, Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên và VN thì chỉ độc nhất có Việt Nam là nước có xích mích trực tiếp với TQ qua vụ lãnh hải, còn các nước khác chỉ là phản đối vụ TQ đàn áp người Tây Tạng, điều đó có nghĩa là nếu có biểu tình thì người VN có lý do chính đáng nhất. Đảm bảo cho an ninh cuộc rước đuốc là chuyện cần thiết nhưng nếu đảng và nhà nước VN thực sự là những người có tâm huyết với đất nước họ vẫn phải cho phép người dân lên tiếng. Nhưng trên thực tế nhà nước VN đã làm ngược lại 180 độ. Một đàng họ dành hết công sức cho cuộc rước đuốc một đàng họ răn đe, bắt bớ tất cả những ai muốn gióng lên tiếng nói bảo vệ Đất Tổ. Trong những ngày trước và sau cuộc rước đuốc, người ta thỉnh thoảng được đọc những thông báo tại các điểm tụ họp đông người, nội dung như sau :
"Trong những ngày gần đây, nhiều tổ chức phản động như "Việt Tân", "Phong Trào Thanh Niên Dân Chủ", "X-Café" đã kêu gọi xuống đường biểu tình chống Trung Quốc. Đây là một hành động vi phạm pháp luật VN. Yêu cầu các bạn thanh niên sinh viên không được tham gia…".
Thông báo không nói rõ tại sao người ta kêu gọi chống TQ. Sự lập lờ có chủ đích này tạo cho người đọc có cảm giác hễ cứ chống TQ là vi phạm pháp luật mà quên rằng chính những ngăn cấm bày này mới thực sự là vi phạm. Trong hiến pháp VN 1992 ở điều 77 có ghi rõ "Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân." thì hà cớ gì lại ngăn cản, bắt bớ người thực thi Hiến pháp ? Những người biểu tình không hề có ý chống đuốc Thế vận và cũng không có đủ sức, đủ điều kiện làm chuyện này thì tại sao lại đe nẹt, bắt bớ họ. Những gì xảy ra chỉ chứng tỏ một điều là đảng cộng sản và nhà nước VN không từ một hành động nào để làm vui lòng người láng giềng phương Bắc.
Trước khi đến VN, ngọn đuốc đã ghé qua thủ đô Seoul của Hàn quốc và cũng đã có nhiều cuộc biểu tình chống đối và ủng hộ đã xảy ra. Sau đó vài ngày, công luận Hàn quốc đã cực kỳ phẫn nộ trước thái độ hung bạo của một số thanh niên TQ sống trên đất Hàn. Những người này đông gấp 6 lần nhóm chống đối và đã dùng bạo lực để tấn công tất cả những người xuống đường tố cáo sự đàn áp của Bắc Kinh một cách ôn hòa. Hàn quốc vốn có truyền thống cư xử mềm mỏng với TQ vậy mà chính phủ nước này đã có những phản ứng kịch liệt trước thái độ rừng rú của đám thanh niên TQ. Cụ thể là thủ tướng Hàn quốc tuyên bố sẽ dùng mọi biện pháp ngoại giao lẫn tư pháp để xử lý, đại sứ TQ tại Seoul bị gọi lên để nhận công hàm phản đối, bộ Tư pháp hứa sẽ xem lại các băng thu hình cam đoan sẽ trục xuất những người vi phạm pháp luật bất kể họ là quốc tịch nào. Hàn quốc chưa bị TQ lấy một tấc đất mà họ đã có phản ứng dữ dội như vậy chỉ mới vì một vài thái độ quá khích, vậy mà VN ta từ trên rừng xuống biển, chỗ nào cũng bị TQ "tùng xẻo" lại ngậm miệng như hến, có nói chăng chỉ là điệp khúc "VN có đủ bằng chứng là Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của VN", và "VN chủ trương giải quyết bằng thương thuyết…". Ngược lại họ lại đàn áp thẳng tay những người đứng ra bảo vệ Tổ quốc. Bảo sao người dân không tức giận !
Một chi tiết đáng lưu ý trong lần rước đuốc tại Sàigòn ngày 29/4 vừa qua là thái độ "kẻ cả" của một số người gốc Hoa. Thường thường, để tỏ tinh thần tôn trọng với nước sở tại thì người biểu tình nước ngoài thường mang theo hai loại cờ. Cờ của mình và của nước tiếp nhận, khi hô khẩu hiệu cũng thường phải hai thứ tiếng. Nhưng đây thì không, có căng mắt cũng khó tìm được lá cờ đỏ sao vàng, có căng tai ra cũng chỉ nghe được "chúng của" (Trung quốc) cái gì đấy. Rõ ràng là họ coi người mình như không hiện hữu. Cũng chưa hết, khi tôi đi tìm một người mặc áo chữ Hoa, trên má có vẽ cờ TQ hỏi ý nghĩa của những khẩu hiệu thì được trả lời bằng một ánh mắt vừa ngạc nhiên vừa khinh miệt. Tôi dự tính hét vào mặt tên ấy rằng họ đang ở trên đất nước VN và biết họ hò hét cái gì cũng là một nguyện vọng chính đáng, nhưng tôi tự kềm chế lại, chung quanh mình không chỉ có công an VN mà còn cả an ninh TQ. Bất ngờ tôi thấy tôi nhỏ bé và hèn hạ quá.
Đôi khi tôi tự hỏi nếu VN chúng ta đem quân đánh chiếm một quận, huyện của Cam Bốt thì liệu cộng đồng VN có dám "lên mặt" giữa thủ đô Nam Vang hay không? Thế thì tại sao chuyện Hoàng Sa Trường Sa còn đang nóng mà cộng đồng Hoa kiều có thể "tung hoành" ngay giữa lòng Sàigòn như chẳng có gì xảy ra ? Đơn thuần chỉ là vì họ biết chắc "sẽ không có gì xảy ra". Nguyễn Tấn Dũng đã nói như thế 72 tiếng đồng hồ trước. Và quả thật như thế, với những gì tai nghe mắt thấy tôi có cảm tưởng người TQ và Hoa kiều đang coi dân tộc VN như cỏ rác.
Dòng sử 5000 năm của VN có nhiều trang huy hoàng, đã có những Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Quang Trung...nhưng cũng có những giai đoạn đen tối. Dân ta đã từng lập đền thờ Nhâm Diên, Tích Quang là hai thái thú người Tàu, đã từng sợ chết khiếp Mã Viện với trụ đồng chôn lại đất Giao Chỉ... Vậy thì với những gì chứng kiến được trong buổi rước đuốc chúng tôi phải tự hỏi : VN của thế kỷ 21, VN của "thời đại Hồ Chí Minh"đang thuộc trang nào trong dòng sử ấy ?
Sàigòn, 30/4/2008
Phan-Kiến-Quốc.
Friday, October 1, 2010
Luan ve nhuc.
Phan Kiến Quốc ( GS Pham minh Hoang )
Trong những ngày gần đây, báo chí và truyền thông trong nước liên tục đăng các bài tố cáo Tổng Giám Mục (TGM) Hà Nội Ngô Quang Kiệt đã lãnh đạo, xúi dục giáo dân Thái Hà (Hà Nội) trong các hành vi đòi lại đất. Sự việc đã xãy ra từ hơn tháng nay tại giáo xứ Thái Hà nhưng đã âm ỉ từ cả năm nay tại một nơi khác là Tòa Khâm Sứ. Tuy nhiên, mọi việc đột nhiên diễn biến khác thường sau cuộc họp ngày 19/9 với Ủy Ban Nhân Dân TP Hà Nội, theo đó TGM Kiệt đã “bôi nhọ dân tộc” khi ông ta tuyên bố : “Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu VN”. Câu nói và hình ảnh được phổ biến rộng rãi trên các kênh truyền thông.
Chưa biết ất giáp thế nào thì hôm qua người bạn cho tôi nghe lại ghi âm toàn văn câu phát biểu. Nghe xong tôi choáng váng. Nguyên văn là thế này :
Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu VN, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ, chúng tôi mong muốn đất nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn quốc bây giờ cũng thế. Còn người VN chúng ta thì tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm và làm sao thật sự đoàn kết, thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta mạnh, đi đâu chúng ta cũng được kính trọng".
Nguyên văn lời phát biểu là như thế, nhà cầm quyền cộng sản đã cắt để chỉ còn giữ 20 chữ đầu, vốn là phần nhập đề cho ý kiến của Tổng giám mục Hà Nội, và từ đo suy diễn ra thành những tư tưởng bôi bác dân tộc, đất nước và chúng chỉ đạo cho các cơ quan truyền thông xúm vào "đánh" TGM Kiệt. Cũng nên nói thêm rằng một trong những bồi bút dễ dạy nhất là Hà Văn Thịnh, hiện là giáo sư sử Đại Học Huế. Trong bài viết có tựa đề “Đáng rủa sả thay” đăng trên báo Lao Động ngày 23/9, ông Thịnh đã trích lời Chúa để tấn công TGM Kiệt. Tôi chẳng biết Chúa có nói đúng như thế không (hay ông lại dùng cái tiểu xảo của đảng là cắt, nối câu nói của một nhân vật để bóp méo sự thật) nhưng ở đây tôi chỉ muốn nhắc với ông là trước khi ông "lên lớp" TGM Kiệt hoặc dạy dỗ cho các sinh viên thì ông cũng nên xem xét lại tư cách, hoặc đúng ra là nhân cách của một giáo sư sử học. Tôi chưa hề thấy ông lên tiếng gì về Hoàng Sa, Trường Sa; trong khi SV Hà Nội và Sàigòn cũng như du sinh tại các nước trên thế giới đã rầm rộ xuống đường để phản đối một bá quyền Trung quốc và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ cha ông. Trái lại tôi lại ngờ rằng ông đã học tập bài bản của đảng là thuyết phục và ngăn cản SV Huế xuống đường bênh vực Tổ quốc. Trong cương vị một giáo sư sử, thật nhục nhã vô cùng. “Đáng rủa sả thay” dùng cho ông là đúng hơn cả.
Bài viết này không có ý đánh vào những tên bồi bút như Hà Văn Thịnh và cũng chẳng muốn nhắc lại sở trường "cắt, gọt" của đảng CSVN vì nó đã trở nên những gì quá bình thường và ai cũng biết cả; nhưng chỉ muốn lạm bàn về chữ NHỤC mà TGM Kiệt đã nói trong phiên học ngày 19/9. Điều cảm nhận trước tiên của tôi là không nhất thiết phải "huỵch toẹt" rõ ràng chữ NHỤC để diễn tả sự nhục nhã của thân phận con người VN thì mới thấy nhục. Ngôn ngữ của chúng ta phong phú ở chỗ đấy, và nếu chỉ bóng gió như thế thì báo chí VN hầu như ngày nào cũng đã nói, đã bàn về cái NHỤC ấy, mà lạ lùng là xã hội chẳng thấy chuyển biến gì và dĩ nhiên chẳng có ai lại đi tấn công họ là "bôi bác dân tộc, nói xấu đất nước" như ông Thịnh vậy. Chúng tôi xin trích ra đây một vài thí dụ lượm lặt trên báo chí trong nước trong thời gian qua, nó dàn trải trên mọi lãnh vực.
Giao thông.
Ngày hôm nay ra đường ai cũng sợ. Sợ kẹt xe, sợ tai nạn. Các vấn nạn này ở đâu cũng có nhưng không ở đâu lại trầm trọng và nhức nhối như ở VN. Các số liệu chính thức cho rằng số người chết hàng năm dao động từ 12 đến 15 ngàn, nhưng cũng theo các cơ quan này thì co số này còn có thể cao hơn. Con số cao nhất mà tôi ghi nhận được là khoảng 23.000 do một hội đồng gồm Uỷ Ban An Toàn Giao Thông kết hợp với các tồ chức của Liên Hiệp Quốc công bố vào năm 2004. Nếu như thế thì mỗi ngày có khoảng 80 người chết (chưa kể bị thương). Một tổn thất còn lớn hơn trong chiến tranh trước đây, và còn đẫm máu hơn các cuộc khủng bố tại Irak, tại Afghanistan ngày nay. Riêng về kẹt xe thì người Sàigòn và Hà Nội vẫn khôi hài rằng trước đây có nhiều điểm kẹt, nay chỉ còn một : đó là toàn thành phố.
Loại ra việc hiện nay là có quá nhiều công trình dang dở, nhưng một trong những nguyên nhân chính là ý thức của chúng ta còn quá kém. Trong mục góp ý về các thói hư tật xấu của người Việt đăng trên báo Tiền Phong năm 2005, một độc giả đã viết : "Khi dòng người đông, bị tắc nghẽn, nếu như, ai nấy đều tuân thủ đi đúng phần đường của mình theo vạch chỉ vôi chia làn đường thì chắc rằng tình trạng tắc nghẽn không đến nỗi lâu và ngột ngạt. Nhưng vì nhiều người Việt của chúng ta vẫn giữ thói xấu phải nhanh hơn, phải vượt lên, vì mục đích, quyền lợi về phần đường, thời gian của mình mà cứ chen lấn, xô đẩy, vượt lên cả phần đường của người đi ngược chiều. Thế là dòng người đi xuôi lấp hết phần đường của người đi ngược. Ngược lại, phía bên kia ngã tư, người ta cũng chen lấn, xô lên như thế. Đây không phải là ý thức nữa mà chuyển sang vấn đề bản tính của người Việt. Bởi vì, nói cho cùng, nếu tại ý thức thì... đa số đều có ý thức vậy sao? Hay đó chính là sản phẩm của tư duy người Việt, tư duy từ hàng nghìn năm của một dân tộc phát triển từ nền văn minh lúa nước. Người ta tìm mọi cách bon chen, vươn lên để tìm kiếm phần thắng, phần lợi cho mình mà không nghĩ đến lợi ích chung của xã hội, không vì ai cả. (…) Đó là thói xấu không biết nhường nhịn, bon chen, chỉ muốn hơn cho mình của người Việt”. Người dám phê phán “ tư duy từ hàng nghìn năm của một dân tộc ” là “bon chen” có tên Nguyễn Văn Học Địa chỉ: Phòng 30, số nhà 18, Ngô Tất Tố, Đống Đa, Hà Nội. Bài đã đăng hơn 3 năm nay chẳng thấy ai nguyền rủa là “bôi nhọ dân tộc cả”. Suốt bài chẳng có một chữ NHỤC mà đọc xong ai chẳng xót xa !
Một thí dụ khác : Trong một cuộc hội thảo tại Hà Nội tháng 4/2002 về tai nạn giao thông đưòng bộ tại VN với sự tham dự của 10 nước ASEAN, cộng với đại diện của các tổ chức quốc tế như Nhật, New Zealand, Úc, Ba Lan và 180 đại biểu đại diện cho 61 tỉnh thành; đại diện của Nhật đã phát biểu :”điều trước tiên cần ưu tiên là nâng cao ý thức cộng đồng”. Nếu câu này là của một người VN thì không có gì để nói (vì đúng là như thế), nhưng phát ra từ một người nước ngoài thì cũng hơi nhột. Vì cứ tưởng tượng nếu lại là người VN phát biểu trong một cuộc họp báo tại Bangkok về tai nạn giao thông tại Thái thì có lẽ họ cũng buồn lắm. Chưa hết, hội nghị đã tại Hà Nội đã kết thúc bằng nhận định “phải chờ một thế hệ nữa mới giải quyết được”. Một thế hệ vào khoảng 20 năm, đã 6 năm qua rồi mà chẳng thấy chuyển biến, có chăng là ngày càng xấu đi. Hội nghị kết luận như thế là quá nhẹ, nhưng quá nhục !
Bây giờ tôi lấy lại một thí dụ khác đỡ chua xót hơn. Bài viết do một độc giả của Tuổi Trẻ gởi tháng 9/2005 :
“Xe đò Cần Thơ - Sài Gòn
Kính trình quí khách đặng tường
Kể từ ngày mùng một tháng mười Lang Sa (1er Octobre 1929), hãng tôi sắm thêm sáu cỗ xe Camion để chạy xuống Cần Thơ và Sài Gòn.
Lên ba cỗ về ba cỗ. Xe máy tốt không chết máy dọc đường.
Mỗi ngày tại Sài Gòn chạy ba cỗ. Một cỗ 6g chạy về Cần Thơ 11g tới. Một cỗ 8g chạy về Cần Thơ 1g (13g - NV) tới. Một cỗ 10g chạy về Cần Thơ 4g (16g - NV) tới.
Mỗi ngày tại Cần Thơ chạy ba cỗ. Một cỗ 6g chạy lên Sài Gòn 11g tới. Một cỗ 8g chạy lên Sài Gòn 1g tới. Một cỗ 10g chạy lên Sài Gòn 4g tới...”.
Nếu thông tin đăng trên mẩu quảng cáo này là đúng với thực tế lúc bấy giờ thì quả là đáng buồn cho ngành giao thông vận tải của nước ta. Bởi từ năm 1929, thời gian xe khách chạy từ Sài Gòn đến Cần Thơ đã là năm giờ đồng hồ, thì 76 năm sau, đến năm 2005, thời gian xe khách (đi hoặc về) giữa hai nơi này phải mất trên dưới... năm giờ đồng hồ! Có thể cho rằng khi ấy phương tiện tham gia giao thông ít, đường vắng nên xe chạy nhanh, còn bây giờ người và phương tiện tham gia giao thông nhiều nên xe không thể chạy nhanh hơn được...!
Nhưng nếu lập luận như vậy thì e rằng tốc độ xe chạy trên đường trong những năm tới còn có thể chậm hơn so với... hàng chục năm trước đây, do người và phương tiện tham gia giao thông ngày một gia tăng!
Đọc xong nghe khôi hài chứ ?! Nhưng nếu người viết kết luận rằng một chế độ 30 năm sau chiến tranh đã đưa đất nước lùi về thập niên 20 thì chắc lại bị lũ bồi bút đánh cho chí tử vì đã “bôi bác dân tộc”.
Xây dựng.
Người SG có lẽ chưa quên được những bê bối như đường liên cảng A5, cống hộp quận Bình Thạnh, cống hộp Thảo Cầm Viên, tượng ông Hồ Chí Minh ở Nghệ An, đài tưởng niệm chiến thắng Điện Biên, đường Xuyên Á,… và gần đây nhất là vụ đường hầm Thủ Thiêm. Tất cả đều xuống cấp nhanh chóng sau không đầy 1 năm khánh thành. Thậm chí chưa đưa vào sử dụng đã có vấn đề (hầm Thủ Thiêm). Kết luận của những bê bối này người ta thường nói đến tình trạng ăn chận vật tư, thi công cẩu thả, mà theo báo chí thì sự thất thoát này vào khoảng 30%. Ngân sách đầu tư của VN vào xây dựng cơ bản khoảng 1 tỷ đến 1.5 tỷ USD/năm, nghĩa là con số thất thoát dao động từ 300 đến 500 triệu USD, một con số khổng lồ, nhất nữa phần lớn là tiền đi vay. Có hai vấn đề cần bàn : thứ nhất là sự thất thoát, thứ hai là tình trạng vay mượn.
Trong một bài viết trên Tuổi Trẻ tháng 4/2002, một độc giả đã viết bài “Chất lượng xây dựng, cần cả trách nhiệm lẫn lòng tự ái dân tộc” với những hàng như sau :”Các công trình xây dựng lớn nhỏ gì cũng đều do cán bộ, công nhân VN trực tiếp xây dựng, nhưng tại sao ở các công trình có người nước ngoài hướng dẫn, giám sát thì thường bảo đảm chất lượng tốt hơn. Các trường hợp điển hình là các đoạn trên xa lộ Hà Nội tốt hơn hẳn đoạn Điện Biên Phủ mở rộng, hoặc các công trình nâng cấp quốc lộ 5,1A,18 (có nước ngoài giám sát), và quốc lộ 51 (do ta tự thiết kế, xây dựng và giám sát)”. Người viết tên Nguyễn Văn Hùng, có lẽ là một kỹ sư xây dựng đã ngưng ở đó. Nhưng có lẽ ông ta cũg như bạn đọc đều :”cảm thấy xấu hổ khi đi trên những đoạn đường cho người VN ta thiết kế, xây dựng và giám sát”. Giữa xấu hổ và nhục nhã có xa nhau là bao ? Viết như thế phải chăng đã ““bôi bác dân tộc” ?
Sang đến chuyện vay mượn mà phần lớn là vốn ODA. Hàng năm các nhà tài trợ thường họp hội nghị để bàn luận kết quả năm đã qua và quyết định số tiền cho tài trợ cho năm tới, con số này vào khoảng 2 tỉ USD. Thường thì năm nào kết luận cũng như nhau : VN đã có những bước cải thiện môi trường kinh doanh và số tiền tài trợ sẽ được tiếp tục. Nghe lạc quan không chịu được. Nhưng chúng ta phải cần biết rằng các nhà tài trợ phần lớn là các ngân hàng, mà ngân hàng thì sống nhờ cho vay lấy lời. Cho dù là tiền lời ưu đãi nhưng cũng không phải là của cho. Đã vay thì phải trả. Hình như sau những phát biểu lạc quan trên thì số nợ trên mỗi đầu người VN bây giờ vào khoảng 6, 7 trăm USD. Nói toạc móng heo ra là : VN là con nợ tốt (vì đông dân và chăm chỉ) nên chúng tôi tiếp tục cho vay. Quý vị vay thì con cháu quý vị trả. Còn cái khoản thất thoát thì không phải chuyện của chúng tôi. Đến đây có lẽ chúng ta đã bớt lạc quan đi một tí, nhưng đến khi nghe lời “nhắn nhủ” của một quan chức World Bank rằng :”VN đang là con nợ, nhưng tôi hy vọng mai này sẽ là những chủ nợ (ý là cho các nước nghèo)” thì thật chịu không được. Các định chế tài chính dư sức biết rằng với mức thất thoát trong xây dựng, với tình trạng tham nhũng, với sự chênh lệch giầu nghèo, với sự tàn phá môi trường như hiện nay thì dẫu cho có duy trì được mức phát triển như hiện nay (7 đến 8%/năm) thì còn lâu VN mới trả xong nợ, huống hồ gì dư tiền cho những nước khác vay ! Không biết các “đỉnh cao trí tuệ” của chúng ta có thấy không nhưng nếu ngồi nghe ông quan chức này phán chắc tôi đứt gân máu mà chết. Có cái tính từ gì diễn tả cho đằng sau những lời lẽ hoa mỹ này không. Có, đó là chữ NHỤC.
Cuộc sống thường nhật.
Bỏ qua những gì tráng lệ của hội nghị các nhà tài trợ (đúng ra là các chủ nợ), chúng ta trở lại với những gì xảy ra hàng ngày chung quanh :
Chuyện vịt nhồi bánh đúc : Con đê ven sông Hồng mà ngày nào tôi cũng đi qua vốn là nơi bà con các tỉnh mang hàng lên Hà Nội bán. Trong các thứ hàng mang lên bao giờ cũng có gà vịt. Tôi nhớ thường có cảnh những xe đạp chở vịt đang đi bỗng dừng lại. Một ít bánh đúc được lôi ra.
Người ta dang rộng mỏ vịt để nhồi mớ bánh đúc ấy vào cho chúng thật đầy diều, nhồi cho đến "lòi tù và" mới thôi. Rồi sang chợ Long Biên cân kẹo với nhau, số cân mỗi con vịt sẽ gồm cả cái đống bánh đúc mới tọng đầy diều đó. Không ai có thể chối cãi đây là một thứ thói hư tật xấu của người Việt. Trong cái hành động nhồi bánh đúc cho vịt có thể đọc ra nếp sống tuỳ tiện, thói quen bừa phứa duy trì bao đời trong lối làm ăn nhỏ. Nghiêm khắc với nhau hơn, phải gọi đây là sự gian manh. Nhân danh đói khổ người ta cho phép mình làm bất cứ việc gì miễn thấy cần. Tức là gian manh một cách công khai, lại còn sẵn sàng cãi lấy được nữa. (Lao Động, 2/07)
Vào khoảng năm 90, chú tôi sống tại Paris có ra cửa hàng Vina Paris mua nửa ký tôm đông lạnh về ăn. Đang nhá ngon miệng thì ông kêu oai oái và rút ra trong miệng một cục chì nhỏ. Người ta nhét vào đầu tôm để nặng ký. Không biết nếu khách hàng là người Pháp thì họ sẽ nghĩ gì về cung cách làm ăn của dân mình ? Mà nói cho cùng chuyện cân thiếu đã là một cái gì nó lậm sâu trong máu người mình rồi, chả ai thấy nó là “bôi bác” cả, nếu không thì tại sao ở mọi chợ đều có vụ cân đối chứng (cân mẫu, để trong phòng ban quản lý chợ, dành cho bà con kiểm lại trọng lượng).
Chuyện việt kiều : Người lao động chân tay đã đành, ngay cả các du sinh VN cũng để lại những gì không tốt trong mắt người bản xứ. Thế nên mới có chuyện nhiều người sang Singapore đã chết đứng nửa người khi thấy tấm biển đề chữ :”Đi vệ sinh xong nhớ xả nước”, viết rõ ràng, và bằng tiếng Việt…Cũng tại đất nước sư tử, một SV nước ngoài đã nói với người bạn VN trong làng đại học: “Mày thấy đám người kia không ? Tao dám cá với mày đó là người VN”. Người bạn đến từ “xứ sở của tư tưởng Hồ Chí Minh” mắt còn chưa nhìn ra đó là ai mới ngạc nhiên :”Sao mày biết ?”. “- Dễ quá, vì chúng mày đi đâu cũng ồn ào và xả rác”. Rồi trong một chuyến du lịch tour sang Bangkok, phần lớn đều là những người có của ăn của để. Trong buổi ăn tự chọn, họ đã vơ vét, cào cấu, lấy cho nhiều, cho cố rồi cuối cùng vứt bỏ ngổn ngang. Nhìn vào ánh mắt của những người bồi bàn Thái mà tôi muốn tìm một chỗ chui xuống cho xong. Nhục quá.
Chuyện xả rác : Tưởng gì chứ chuyện này quá thường. Khoan ! chuyện này thường nhưng bài viết này (Tuổi Trẻ, 7/2008) hơi khác thường :
Tôi là người Pháp nhưng chẳng bao giờ dám khẳng định Paris chỉ toàn những khung cảnh đẹp lung linh như thiên đường, mà cũng như bất kỳ nơi đâu Paris vẫn còn đó khá nhiều khu vực đầy rác và bụi bặm. Nhưng nhìn chung những thành phố của Pháp sạch hơn những thành phố ở VN nhiều. Tại sao và do đâu?
(…) điều quan trọng nhất, theo tôi, là do sự giáo dục về vệ sinh môi trường tại VN chưa được quan tâm đúng mức. Người ta có thể đặt thêm nhiều thùng rác ở VN, nhưng điều đó chưa chắc sẽ đồng nghĩa với việc giải quyết được nạn xả rác bừa bãi. Tôi đã từng thấy rất nhiều người Việt thản nhiên ném bao, ly nhựa xuống đất khi đang đi đường, hoặc những tốp thanh niên đi picnic cứ vô tư để lại trên đất cơ man là khăn trải, đĩa, bịch nilông... dẫu thùng rác được đặt kế bên!
Liệu có bao nhiêu người trong số những người xả rác ấy biết được phải mất cả hàng ngàn năm để những vật dụng bằng nhựa bị phân hủy và hậu quả của nó lớn như thế nào? Tôi tin chắc nhiều người trong các bạn nghĩ môi trường sống xung quanh là “của chung” chứ đâu phải “của riêng”, vì vậy thật vô lý và rất khó để đòi hỏi các bạn phải hết sức gìn giữ. Quan niệm như vậy là thiển cận và ích kỷ.
Tôi mong mọi người hãy gạt bỏ suy nghĩ ấy qua một bên và biết quan tâm hơn tới lợi ích chung, nhất là về mặt môi trường - điều mà giới trẻ phương Tây của chúng tôi đã được giáo dục và chỉ bảo rất rõ từ nhỏ. (Roméo Dimier Degrange).
Không biết mọi người nghĩ sao nhưng cái câu cuối cùng của cậu Roméo này đã làm tôi co thắt ruột đi được.
Trở lại với những thói hư tật xấu của người Việt mà báo Tiền Phong đã tạo ra một diễn đàn rất sôi nổi cách đây 3 năm, xin mời mọi người nghe ý kiến của một độc giả Hà Nội tên Nguyễn Tất Thịnh. Anh đã liệt kê những phong cách, hành vi, tập tính của người (Việt) chung quanh như sau
1. Nguồn gốc: tiểu nông – mục tiêu cuộc đời : tiểu chủ – hành vi: tiểu xảo – làm ăn : tiểu thương – suy nghĩ : tiểu trí.
2. Tình cảm không dào dạt hơn cái ao làng– nhìn quá ngọn tre là chóng mặt– chỉ uống nước giếng khơi mới không đau bụng – Một ngày không ăn mắm tôm không chịu được – Phát minh là cải tiến xe công nông- Ý nghĩa cuộc đời là ăn miếng dồi chó- Mong ước lớn nhất là hơn người – Sợ nhất là chết không toàn thây.
3. Nếp sinh hoạt của những người như họ? Một người thì trùm chăn ngủ– nếu hai người thì tổ chức nấu nướng– ba người thì nói xấu người khác– bốn người trở lên thì chia bè kéo cánh.
4. Hễ chỉ có một thì có khi không rơi xuống hố, hai người thì đào hố bẫy người, có ba người đi với nhau thì có thể hơn một người sẽ rơi xuống hố do chính họ đào.
5. Ham học nhưng để làm quan chứ không nhằm cải tạo cuộc sống.
6. Con chấy cắn đôi khi nghèo khổ, nhưng chỉ mong con lợn nhà hàng xóm lăn ra chết.
7. Đánh nhau kiểu hội đồng từ sau lưng mà không dám đối mặt trên đấu trường.
8. Trong diễn đàn thì ngậm miệng, nhưng bàn nát chuyện ngoài quán nước.
9. Bao nhiêu tinh lực dành cho sự lẩn lách để tồn tại– bởi vậy ưa những hình thức phi chính thống làm ăn.
10.Đi đến đâu cũng lập chợ quê mà không thể tính chuyện làm ăn lớn.
11.Hay nói tình nghĩa nhưng dễ đánh nhau vỡ đầu vì món lợi nhỏ.
12.Nói năng cởi gan cởi ruột nhưng phong cách sống rất khép kín.
13.Cười hinh hích để tự thưởng cho ý nghĩ của mình hơn là cười tươi với cái hay của người khác– Sướt mướt với cái thua thiệt của mình để hằn học với niềm vui của người khác.
14.Coi cái gì cũng là nhỏ mà bỏ qua trong khi không định nghĩa được cái lớn là gì. Việc lớn thì kinh, việc nhỏ thì khinh, việc bình thường thì không thích.
15.Có nhiều sáng kiến nhỏ nhưng không có khả năng biến những cái đó thành hàng hóa cạnh tranh.
16.Vừa sùng ngoại vừa bài ngoại.
17.Có khuynh hướng bới thù trong bạn hơn là tìm bạn trong thù.
18.Rất khó dung nạp và đồng thuận với sự khác biệt.
19.Rất “tinh tướng” vì không biết mình biết người.
20.Luôn nghi ngờ, không phải để nhận thức lại thế giới mà chẳng thực tin vào cái gì.
* * *
Trong suốt bài viết này, chúng tôi đã trích đoạn một số ý kiến và thấy có một điểm chung là chẳng một ai, cho dù là người Việt hay người ngoại quốc đã dùng đến tính từ NHỤC nhưng đọc đến đâu lại thấy xót xa đến đấy. Xót vì quá đau và quá đúng.
Theo tôi nghĩ chỉ cần nói đến 1 trong 20 tật xấu của bạn Nguyễn Tất Thịnh trong một buổi họp nào đó (chứ không phải trên diễn đàn Tiền Phong), người ta dễ dàng bị chụp cho cái mũ “nói xấu dân tộc”, thậm chí là phản quốc không chừng. Vậy thì toàn câu nói của TGM Kiệt trong ngày 19/9 xem ra còn nhẹ hơn rất nhiều thế mà đảng phải huy động cả một bộ máy truyền thông công thêm một đám bồi bút tấn công ông ta ? Tại sao ?
Đơn giản quá, ngoại quốc nó khinh rẻ mình chẳng qua là vì nó khinh rẻ tập đoàn lãnh đạo VN, những kẻ đã từng tự phong là “đỉnh cao trí tuệ”, nhưng rặt những phường tham nhũng, thối nát, một chế độ phản dân chủ và vi phạm nhân quyền trầm trọng. Tập đoàn ấy cho dù không hiện diện trong phiên họp cũng đã nhận ra rằng câu nói của TGM Kiệt đó là những lời tố cáo trực tiếp họ nên đã vin vào câu “chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu VN” để trừng phạt ông ta, thế thôi.
Cầu xin cho giáo dân Thái Hà cũng như TGM Kiệt vững lòng trong công cuộc giải trừ mối nhục cho cả dân tộc, vì trong ngày 19/9 ông đã nói thay cho chúng tôi.
Sàigòn, 24/9/2008
Phan-Kiến-Quốc.
Tran manh Hao va dai hoi nha van.
Tham luận suất sắc của nhà văn Trần Mạnh Hảo trong Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ XIII.
Monday, August 02, 2010 10:56 PM ( #1 )
(Cali Today)
Tham khảo: TRẦN MẠNH HẢO – CHỈ CÓ SỰ THẬT MỚI GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI, GIẢI PHÓNG VĂN HỌC VÀ ĐẤT NƯỚC
Jul 28, 2010
(Tham luận của Trần Mạnh Hảo trong Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ XIII, soạn theo thư “mời viết tham luận” của nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhờ nhà thơTrần Đăng Khoa đọc giùm – cám ơn!)
“Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý”
K. Marx
Kính thưa quý đồng nghiệp cầm bút,
Thưa quý vị quan khách và quý vị lãnh đạo,
Thói thường, con người sợ món gì nhất? Sợ ma quỷ ư? Không! Sợ vợ ư? Không! Sợ công an ư? Không! Sợ kẻ cầm quyền ư? Không! Sợ chết ư? Không!
Theo chúng tôi, con người trên mặt đất này sợ nhất sự thật! Vì vậy, ngạn ngữ Việt Nam từng nói: “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”. Người Trung Hoa từ thượng cổ đã nói: “Trung ngôn nghịch nhĩ”. Người Ba Tư cổ khuyên: “Nếu nói ra sự thật, anh sẽ chết”. Người Ai Cập xưa cảnh cáo: “Khi sự thật bị bỏ quên quá lâu, một hôm nó thức dậy thành ngày tận thế”. Ngạn ngữ Tây Tạng tiền Phật giáo khuyên: “Mày chỉ được phép nói ra sự thật, nếu mày làm vua”. Thổ dân Úc bảo: “Ai nhìn thẳng vào sự thật sẽ bị mù mắt”. Lịch sử nhân loại đã ghi nhận hàng triệu con người từng dám cả gan nói lên sự thật mà bị mất mạng, bị tù tội hay bị quản thúc tại gia.
Đã có bao nhiêu lý thuyết chính trị thề bồi giải phóng con người, bao nhiêu cuộc lật đổ, cuộc cách mạng tuyên thệ giải phóng con người, giúp con người hoàn toàn tự do, sau khi đã giết hàng triệu triệu sinh mạng. Rút cuộc, con người hình như vẫn chưa được hoàn toàn giải phóng, chưa hoàn toàn được tự do, con người vẫn còn sợ hãi vì bị sự dối trá thống trị? Một số đất nước, một số dân tộc trên hành tinh vẫn còn bị nhốt trong nhà ngục có tên là dối trá. Cần phải làm một cuộc cách mạng của sự thật mới mong giải thoát cho nhân dân khỏi ngục tù kia.
Chìa khóa cuối cùng giúp con người được giải phóng, được hoàn toàn tự do, chính là sự thật, một sự thật không còn bị giấu như loài mèo giấu của quý. Karl Marx đã tôn vinh sự thật lên tột cùng của nhận thức luận và phương pháp luận: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” :
không có sự thật đi kèm, mọi kết luận, mọi lý thuyết, mọi khế ước, mọi hội kín, mọi cuộc cách mạng đều chỉ là ngụy lý, ngụy tạo, là lừa bịp. Cố Tổng thống Ba Lan Lech Kaczyński (1949-2010) người vừa bị tử nạn trong vụ rơi máy bay trên đường bay đến rừng Katyn tham dự lễ kỷ niệm 22.440 người con ưu tú của dân tộc Ba Lan bị Hồng quân Liên Xô chôn sống hồi đầu chiến tranh thế giới thứ hai; trong bài diễn văn viết sẵn mà ông không còn cơ hội để đọc, có đoạn viết như sau: “Sự thật, kể cả sự thật đau đớn nhất luôn luôn giải phóng cho con người. Sự thật gắn kết. Sự thật mang lại sự công bằng. Sự thật chỉ ra con đường hòa hợp.”
Lấy ý tưởng từ câu cách ngôn kinh điển của K. Marx và lời trăn trối thiêng liêng thống thiết lớn lao của ngài cố Tổng thống Ba Lan trên, chúng tôi viết bản tham luận theo yêu cầu của Hội Nhà văn Việt Nam này.
Dostoyevsky, nhà văn vĩ đại nhất của chủ nghĩa hiện thực Nga và thế giới, từng tuyên ngôn rất hoa mỹ, rằng: “Cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới”. Chúng tôi thêm: “Sự thật sẽ cứu chuộc thế giới”. Sự thật sẽ cứu chuộc nền văn học của chúng ta, cứu chuộc Tổ quốc ta, nếu chúng ta cả gan một lần cùng nhau: “Gọi sự vật bằng tên của nó” theo cách ngôn của phương Tây.
Nếu Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam thử một lần hợp tác với đất nước, với dân tộc Việt Nam mở HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG CHỐNG GIẶC NÓI DỐI để tìm ra con đường cứu nguy dân tộc đang trên đà suy vong, thì công này của quý vị rất lớn. Ông cha chúng ta đã đánh thắng giặc Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh… để bảo tồn đất nước. Tất cả các thứ giặc trên cộng lại cũng không ghê gớm bằng giặc nói dối đang tàn phá Tổ quốc ta, giống nòi ta. Lần này, nếu nhân dân ta không vùng lên đáng tan BỌN GIẶC CÓ TÊN LÀ DỐI TRÁ, chắc chắn đất nước ta sẽ bị kẻ thù phương Bắc nuốt chửng, như mấy nghìn năm trước chúng đã nuốt chửng toàn bộ các dân tộc Bách Việt từng định cư lâu dài phía nam sông Dương Tử.
Chúng tôi viết bản tham luận này cũng để nhằm hưởng ứng cuộc hội thảo “Văn học nghệ thuật phản ánh hiện thực đất nước hôm nay” do Ban Tuyên giáo Trung ương vừa tổ chức tại Đà Lạt trong hai ngày 12-13/7/2010 với hơn hai trăm văn nghệ sĩ và các nhà lý luận phê bình hàng đầu Việt Nam tham dự. Cuộc hội thảo dũng cảm kêu gọi văn nghệ sĩ từ trên mây tỉnh giấc, quay về với hiện tình đất nước, do GS.TS. Phùng Hữu Phú (Ủy viên Trung ương Đảng, phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, chủ tịch Hội đồng Lý luận Phê bình Trung ương), chỉ đạo. Theo Đại từ điển tiếng Việt trang 803, từ “hiện thực” có nghĩa như sau: “Cái có thật, tồn tại trong thực tế” (Bộ Giáo dục & Đào tạo–Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam-NXB Văn hóa Thông tin xuất bản 1998). Như vậy, khái niệm “hiện thực” chính là sự thật đã và đang xảy ra trong thực tại trên đất nước ta. Cuộc hội thảo của Ban Tuyên giáo Trung ương vừa qua có thể được gọi bằng một cách khác: “Văn học nghệ thuật phản ánh sự thật của đất nước hôm nay” . Muốn phản ánh được sự thật của đất nước hôm nay, việc trước tiên của chúng ta là phải nhìn ra sự thật, gọi đúng tên sự vật, không phải sự thật tô hồng hay sự thật bôi đen, mà sự thật đúng như nó đang tồn tại khách quan quanh ta.
Lâu nay, vẫn nghe dân gian xì xào nửa hư nửa thực rằng: “Các thế lực thù địch (xin lỗi, tiên sư nó) nói cái gì hình như cũng đung sắc đúng, Ban Tuyên giáo Trung ương (xin lỗi) nói cái gì hình như cũng sờ ai sai…” thì quả là chưa chắc; bằng chứng là trong hoàn cảnh đất nước mà sự thật trốn biệt như hôm nay, thì việc Ban Tuyên giáo Trung ương kêu gọi nhà văn chúng ta hãy mở mắt, từ bỏ giấc nam kha vô tích sự quá dài để nhìn vào sự thật, nói lên sự thật đất nước, là một việc làm quá đúng.
Tất nhiên, sự thật mà Ban Tuyên giáo Trung ương kêu gọi nhà văn nhìn nhận được nhìn bằng mắt thường, chứ không phải sự thật bịt mắt bắt dê, hay sự thật được nhìn bằng mắt kẻ khác, nhìn bằng những thấu kính ảo, kính lồi, kính lõm, hay chiếc gương chiếu yêu, chiếu bóng…
Thâm ý của Ban Tuyên giáo Trung ương hình như muốn chúng ta tìm lại phong trào “Nói thẳng, nói thật” thời kỳ Đổi mới năm 1986 -1987 do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh phát động?
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, trong cuộc gặp mặt văn nghệ sĩ năm 1987, đã làm gương nói thẳng nói thật, khi ông đặt vấn đề rốt ráo cho văn học nghệ thuật là nhà nghệ sĩ phải có tự do sáng tác; ông nói: “Cởi trói như thế nào, cởi trói nói ở đây trước hết là Đảng phải cởi trói cho các đồng chí… Tôi cho rằng khi những sợi dây ràng buộc được cắt đi, sẽ làm cho văn học nghệ thuật như con chim tung cánh bay lên trời xanh…”.
Rõ ràng, qua lời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Đảng đã thừa nhận từng trói văn nghệ sĩ và trí thức rất nhiều năm. Lần này, Ban Tuyên giáo Trung ương, thông qua cuộc hội thảo cấp nhà nước “Văn học nghệ thuật hướng vào sự thật của đất nước” đã khuyến khích kẻ hèn này là chúng tôi nói lên sự thật, toàn là những sự thật chết người, sự thật mà chính quyền cố tình giấu diếm vì món lợi của quyền lực, với sự ngụy biện chống lại lẽ phải, chống lại chân lý: “Nói ra sự thật lúc này không có lợi” . Chả lẽ vì cái lợi, vì miếng ăn mà chúng ta đành phải nói dối hết đời ông đến đời cha, hết đời con đến đời cháu hay sao? Vậy chừng nào nhà nước Việt Nam mới cho người dân chúng tôi công khai nói ra sự thật đây? Chúng tôi đành lấy lời dạy của K. Marx làm bùa hộ mệnh: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” để một lần cuối cùng nói ra sự thật của đất nước chúng ta, dẫu có bị bị làm phiền, thậm chí bị tù đầy cũng mặc. Một kẻ nói dối, một dân tộc nói dối “lộng giả thành chân”, là một kẻ, một dân tộc không có tự do, không có độc lập, không có dân chủ, không có chân lý và lẽ phải… Khi một kẻ, một dân tộc phải núp vào sự dối trá để tồn tại, kẻ đó, dân tộc đó là một kẻ yếu, một dân tộc yếu đang trên đường suy vong. Chỉ có kẻ mạnh, kẻ tự tin, kẻ có liêm sỉ, có đạo đức mới không sợ sự thật, dù là sự thật đau đớn nhất, khủng khiếp nhất mà thôi.
Được lời như cởi tấm lòng, chúng tôi xin kể ra SỰ THẬT ĐẤT NƯỚC qua mắt mình, cái mà nền văn học của chúng ta lâu nay lảng tránh, làm ngơ, mặc “quốc gia hưng vong”, “ thất phu” thay vì “ hữu trách” thì hầu như cánh “thất phu” nhà văn thảy đều “tắc trách”… Chúng tôi mong 700 tờ báo của lề phải, tức báo của Đảng và nhà nước, hãy hạ cố chỉ ra những sự thật mà chúng tôi gọi tên trong bài tham luận này đúng hay sai. Còn nếu quý vị dùng công an hay nhà tù để đối thoại với chúng tôi thì quý vị đã mặc nhiên thừa nhận chúng tôi nói đúng; chỉ vì đuối lý mà quý vị mới phải dùng hạ sách là làm phiền chúng tôi, đe dọa chúng tôi thì quý vị đã không chính danh quân tử, dùng nền chính trị bá đạo ứng xử với người dân, khi người dân dám nói lên sự thật để hi vọng trên đất nước đau thương và cam chịu này le lói một nền chính trị vương đạo, dựa vào sự thật, lương tri và lẽ phải. Trong hàng trăm sự thật nhãn tiền của đất nước, chúng tôi chỉ xin kể ra ba sự thật mà thôi.
SỰ THẬT MỘT
Chưa bao giờ số phận dân tộc ta, đất nước ta có nguy cơ tiêu vong như hôm nay: nước nhà đang bị giặc ngoại bang xâm lấn bằng cuộc chiến tranh ngọt ngào, chiến tranh ôm hôn thắm thiết và tặng hoa, tặng quà anh anh chú chú, bằng cách chiếm dần hai quần đảo chiến lược Hoàng Sa và Trường Sa, lấn chiếm dần dần biên giới đất liền và hải đảo, khiến nguồn lợi biển vô cùng tận của ta rồi sẽ mất hết, dân tộc ta không còn đường ra đại dương, coi như tiêu. Ngoại bang dung chiêu bài “ý thức hệ” và “16 chữ vàng” làm dây trói vô hình, trói buộc Đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam phải nhân nhượng kẻ xâm lược hết điều này đến điều khác. Trên đất liền, ngoại bang dùng con bài khai thác bauxite, mua đất thời hạn 100 năm của 18 tỉnh lấy cớ trồng rừng, thực chất là công cuộc chiếm đất di dân theo kiểu vết dầu loang, theo kiểu “nở hoa trong long địch”. Đến nỗi, khi giặc chiếm Hoàng Sa rồi đặt tên quận huyện cho quần đảo này, sinh viên thanh niên biểu tình chống giặc lại bị nhà nước Việt Nam bắt. Vậy, nhà nước chúng ta hiện nay đứng về phía ngoại bang xâm lược hay đứng về phía nhân dân ta? Cũng chưa bao giờ như hôm nay, thiên nhiên và môi trường sống trên nước ta lại bị phá hoại khủng khiếp như thế: rừng bị triệt phá gần hết, sông ngòi đồng ruộng cạn kiệt nguồn nước, lụt lội kinh hoàng, khí trời bị ô nhiễm tới mức cuối cùng, nước mặn xâm hại phá hủy các đồng bằng. Chỉ cần một trận mưa lớn là Hà Nội, Sài Gòn biến thành sông do quy hoạch xây dựng phản khoa học. Hạt lúa, củ khoai, mớ rau, tôm cá, thịt gia súc, gia cầm cũng đang bị các chất hóa học độc hại chứa trong thức ăn, các chất tăng trưởng, chất bảo quản độc hại ám sát, khiến sinh tồn của giống nòi có cơ biến dạng…
Đạo đức xã hội tha hóa tới mức cuối cùng, con người hầu như không còn biết tới liêm sỉ và lẽ phải… Một ông Chủ tịch tỉnh Nguyễn Trường Tô và rất nhiều quan chức cao cấp trong tỉnh Hà Giang chơi gái vị thành niên do ông hiệu trưởng trường trung học Sầm Đức Xương bắt các cháu nữ sinh là học sinh trong trường làm điếm, nhằm cống nạp cho các quan đầu tỉnh. Nghe nói ông Nguyễn Trường Tô, ông Sầm Đức Xương từng là những người nhiều năm liền được bằng khen vì thành tích học tập và làm theo đạo đức ****. Một sinh viên Nguyễn Đức Nghĩa từng là đoàn viên thanh niên cộng sản ưu tú, đã ra tay giết và cướp của chính người yêu cũ của mình một cách man rợ, không phải là cá biệt trong một xã hội con giết cha, vợ giết chồng, anh em giết nhau được đưa tin đầy tràn trên các trang báo lề phải. Lối sống vô đạo đức, hành vi vô luân, con người ứng xử với con người man rợ hơn dã thú đang là vấn nạn quốc gia, có thể đưa một dân tộc vốn có văn hóa, văn hiến bốn nghìn năm tới chỗ diệt vong… Không nhìn ra những nguy cơ chết người này, liệu 100 năm nữa Tổ quốc Việt Nam chúng ta còn tồn tại không? Dòng giống con Lạc cháu Hồng còn tồn tại không?
Nền giáo dục Việt Nam hôm nay là một nền giáo dục thiếu trung thực, đúng như ý kiến của ông Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã công nhận. Đạo đức trong giáo dục Việt Nam hôm nay đồng nghĩa với dối trá: thày dối trá thày, trò dối trá trò, quản lý giáo dục báo cáo láo cốt lấy thành tích, nạn mua bán bằng, bán đề thi, mua quan bán tước đang là đại họa của nền giáo dục.
Hầu hết sách giáo trình, sách giáo khoa… là sách đạo văn. Cán bộ có chức có quyền đua nhau làm thạc sĩ, tiến sĩ… lấy bằng thật nhưng học giả. Nạn dùng tiền mua bằng cấp, mua học hàm học vị đang diễn ra công khai trong cái chợ trời giáo dục Việt Nam. Việc Hà Nội vừa qua đưa chỉ tiêu “xóa mù tiến sĩ” cho cán bộ công nhân viên nhà nước đã nói lên học vị tiến sĩ chẳng còn giá trị gì cả. Có lẽ trong vài năm tới, sau việc Bộ Giáo dục ra chỉ tiêu đào tạo thêm 23.000 tiến sĩ, sẽ dẫn tới chiến dịch xóa mù tiến sĩ trên phạm vi toàn dân. Nhiều ông cán bộ cấp cao có học vị tiến sĩ nhưng chưa có bằng tốt nghiệp đại học, thậm chí có vị chưa có bằng tốt nghiệp cấp 2 vẫn lấy được học vị tiến sĩ. Việc chính trị hóa môn văn, môn lịch sử, môn triết học, chính trị hóa nền giáo dục… đã tạo cơ sở cho sự dối trá làm bá chủ đất nước. Giáo dục như thế sao có thể đào tạo ra những công dân chân chính? Đây là dấu hiệu suy vong lớn nhất của dân tộc do nền giáo dục thiếu tính nhân văn, thiếu tính chân thật gây ra. Những quả bom B52 tinh thần là nền giáo dục đi chệch hướng chân thiện mỹ đang rải thảm lên tinh thần dân tộc, thì ai là người phải chịu trách nhiệm trước lịch sử đây?
Than ôi, sau những quả bom tinh thần có tên là giáo dục mà chế độ tự ném vào mình, chỉ cần ngoại bang ném bồi thêm mấy quả bom thật vào hai đập thủy điện Sơn La và Hòa Bình là đồng bằng Bắc Bộ và cả Hà Nội sẽ biến mất, dân tộc sẽ biến mất… Hai đập thủy điện khổng lồ trên nghe đâu lại nằm trên vết nứt động đất… mới hãi hùng làm sao? Đầu nguồn sông Hồng, đầu nguồn sông Mê Kông, Trung Quốc đã và đang xây hàng trăm đập thủy điện, khiến hai con song chính của đất nước khô cạn dần, không còn đủ nguồn nước tưới cho hai đồng bằng chính nuôi sống dân tộc. Cách Móng Cái 60 km, tại Phòng Thành, Trung Quốc đang xây nhà máy điện hạt nhân rất lớn; nếu có sự cố kiểu Chernobyl vào mùa gió bấc, Hà Nội và dân đồng bằng Bắc Bộ có thể sẽ chết hết vì nhiễm phóng xạ hạt nhân…
SỰ THẬT HAI
Chưa bao giờ như hôm nay, trên đất nước ta, giặc nội xâm có tên là tham nhũng lại hoành hành ngang nhiên, kinh hãi như dịch hạch đến thế. Dân có tham nhũng không? Không!
Thế thì ai là giặc nội xâm, là giặc tham nhũng? Thưa, chính quyền! Chỉ kẻ có chức có quyền mới tham nhũng được mà thôi. Vụ tham nhũng mới nhất như một đòn hiểm ác đánh một cú chí tử vào đất nước là tập đoàn Vinashin – một nấm đấm thép của chính phủ – đã cướp đi của nhân dân số tiền khổng lồ là 80.000 tỷ đồng. Cứ thử làm tròn dân số nước ta là 90 triệu người (thực ra dân số Việt Nam mới chỉ trên 85 triệu dân), vị chi mỗi người dân vừa bị tập đoàn quốc doanh Vinashin cướp đi gần 9.000.000 đ. Chín triệu đồng với người nông dân là một nguồn vốn lớn: một gia đình nông dân có bốn nhân khẩu chẳng hạn, đã vừa bị Vinashin cướp đi nhãn tiền 36.000.000 đ. Đã có bao nhiêu tập đoàn Vinashin cướp hết tiền của nhân dân trong quá khứ, trong hiện tại chưa bị phát hiện? Những nấm đấm thép của chính phủ như các tập đoàn kinh tế: tập đoàn Than, tập đoàn Điện, tập đoàn Khoáng sản… đã và đang đấm chí tử vào hầu bao dân nghèo Việt Nam. Theo kiểm toán nhà nước, năm 2008, các tập đoàn kinh tế – nắm đấp thép – đã làm thất thoát 10 tỷ đô la. Năm 2009, số thất thoát (đổ tội cho lỗ vốn) cũng không nhỏ hơn số 10 tỷ đô la năm trước. Các tập đoàn kinh tế quốc doanh, các công ty quốc doanh đang là đại họa cho quốc gia; chứng tỏ thành phần kinh tế rường cột của mô hình xã hội chủ nghĩa này đã hoàn toàn thất bại.
Về quốc nạn tham nhũng, bà Phạm Chi Lan, chuyên viên kinh tế cao cấp của chính phủ đã phải cay đắng thừa nhận “bọn nắm đấm thép – chúng nó ăn hết tiền của dân rồi” như sau: “Một khi vẫn còn các ông lớn chủ đạo vẫn ngốn hết nguồn lực của đất nước và thâu tóm hết quyền thiết kế chính sách có lợi cho mình, thì làm sao thằng nhỏ động lực kinh tế tăng tốc được” (Tuần Việt Nam 22/07/2010).
Tại sao nhà nước ta hiện nay vốn có hai chính quyền cồng kềnh, chồng chéo nhau, giẫm đạp lên nhau: một chính quyền theo hệ Đảng và một chính quyền theo hệ nhà nước với hàng vạn ban thanh tra, hàng vạn chi bộ bốn năm sáu tốt, với hầu hết mấy triệu đảng viên gương mẫu đều đã học tập tốt đạo đức Bác Hồ, mà giặc tham nhũng lại ngang nhiên hoành hành trắng trợn từ vi mô đến vĩ mô đến như vậy? Quan tham nhìn từ xã trở lên không thấy lao động chân tay, không thấy lao động trí óc, chỉ sử dụng một thứ lao động có tên là LAO ĐỘNG LÃNH ĐẠO mà ai ai cũng giàu có hơn dân thường hàng trăm, hàng nghìn, hàng vạn, hàng triệu, hàng tỉ lần là sao?
Chung quy lại, có phải là do thể chế sai, mô hình chính trị sai: VỪA ĐÁ BÓNG VỪA THỔI CÕI, VỪA ĐI THI, CHẤM GIẢI VỪA PHÁT GIẢI VỪA ĐƯỢC LÃNH GIẢI. NHÀ NƯỚC – ĐẢNG MỘT MÌNH MỘT CHỢ: VỪA THAM NHŨNG VỪA CHỐNG THAM NHŨNG? Xin hỏi: tay phải tham nhũng, liệu tay trái có dám cầm dao chặt được tay phải hay không? Có bác sĩ ngoại khoa nào tài giỏi mổ cắt được ruột thừa viêm chính mình không ?
Linh hồn triết học duy vật biện chứng Marxism nằm ở câu kinh mà đảng viên cộng sản nào cũng phải thuộc làu làu: “Mọi sự vật đều được cấu thành bởi các mặt đối lập thống nhất”.
Chỉ trừ nền chính trị của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam không hề nằm trong quy luật vận động này của Marx, vì nó triệt tiêu đối lập chính trị! Nền chính trị độc đảng, độc quyền của nước ta hôm nay đang chống lại biện chứng pháp Marxism. Trong phép biện chứng do Hegel sáng tạo, Marx tiếp thu, có ba nhịp như sau: xuất đề, phản đề và tổng đề. Phản đề hay đối lập chính là linh hồn của biện chứng pháp Marxism. Chối bỏ đối lập, triệt để cấm phản đề, cấm đối lập chính trị, nền chính trị của nước ta ngày nay đang chống lại chính cái lý thuyết chủ nghĩa cộng sản mà nó thề nguyền đi theo, thành ra một nền chính trị thoái bộ, rất giống với các nền chính trị thần quyền thời Trung cổ bên châu Âu.
Hãy xem khẩu hiện rất duy tâm, hoàn toàn chống lại thuyết Marxism của Đảng cầm quyền: “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh MUÔN NĂM”. Marx từng giải thích tại sao loài người thống khổ: vì loài người còn phân chia giai cấp. Mục đích của Marx là làm cho nhân loại tiến đến đại đồng, tức tiến đến thiên đường cộng sản. Muốn đến thế giới cộng sản, phải xóa bỏ các giai cấp: xóa bỏ giai cấp tư sản, xóa bỏ giai cấp vô sản, xóa bỏ nhà nước, xóa bỏ công an, quân đội, tất nhiên phải xóa bỏ cả Đảng Cộng sản, vì Đảng Cộng sản là đảng của giai cấp vô sản. Mà khi xóa bỏ giai cấp, thì đảng của giai cấp cũng không còn. Hô “Đảng Cộng sản Việt Nam MUÔN NĂM” cầm bằng như hô: “Xã hội loài người có giai cấp muôn năm” ! Rõ ràng hô như vậy là treo cổ chủ nghĩa Marx, là không chính danh, là tự xóa bỏ tính mục đích của Đảng Cộng sản.
SỰ THẬT THỨ BA: NÓI MỘT ĐÀNG, LÀM MỘT NẺO, HAY LÀ DANH KHÔNG CHÍNH THÌ NGÔN KHÔNG THUẬN
Đảng, Nhà nước Việt Nam nói thì rất hay, nhưng làm thường ngược lại. Những nguyên tắc, nguyên lý, luật pháp, chính sách, đường lối của Đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam hiện nay hầu hết đều không chính danh.
Xin chứng minh
Trong Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam người dân được hưởng tất cả các quyền: quyền sống, quyền làm người, quyền hoạt động chính trị, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, lập đảng phái, quyền biểu tình, tự do tôn giáo, tự do cư trú, tự do đi lại, tự do đủ thứ…Nhưng: Chính sách hộ khẩu đã cấm tự do cư trú.
Quyền được biểu tình của dân bị cấm chỉ bởi một nghị định (do Thủ tướng Phan Văn Khải ký): cấm từ năm người trở lên tụ tập hay đi hàng dọc ngoài đường, ngoài phố. Anh bạn chúng tôi có 5 đứa con, cộng hai vợ chồng là 7 người, mỗi sáng Chủ nhật anh chị dẫn bầy con đi tập thể dục tại công viên cách nhà hơn cây số . Đoàn rồng rắn tí hon của anh chị không thể đi thành một hàng, mà phải bí mật xé lẻ thành hai tốp, anh dẫn 3 đứa con, chị dẫn 2 đứa con giả vờ không quen biết nhau, đi vào hai lề đường khác nhau, sợ đi chung sẽ bị công an bắt… Anh bạn này tâm sự: ra Quốc lộ số 1, qua một số đường phố ở các thành phố nhỏ, thấy trâu bò được ung dung đi thành bầy đàn hàng mấy chục con trên đường mà không bị công an bắt? Sao kiếp người ở Việt Nam lại tủi hổ hơn kiếp bò: con bò còn được tự do tụ tập, tự do nghênh ngang rồng rắn trên đường, được Đảng và nhà nước đối xử tử tế hơn hẳn con người… là sao hở các ông trời con?
Tự do tôn giáo bị cái rọ tôn giáo quốc doanh cấm cản. Hàng trăm sư sãi, chùa chiền vốn theo một hệ phái Phật giáo riêng từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam đã bị cấm hoạt động, bắt phải vào Phật giáo quốc doanh, nếu không chịu quốc doanh hóa Phật giáo sẽ bị bắt.
Công giáo cũng phải thành Công giáo quốc doanh. Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành… cũng phải vào quốc doanh thì sao gọi là tự do tôn giáo? Ở một đất nước không có TÔN GIÁO TƯ NHÂN, chỉ có TÔN GIÁO QUỐC DOANH mà cứ xưng xưng toe toét: Việt Nam có tự do tôn giáo.
Điều 4 trong Hiến pháp cho phép chỉ một mình Đảng Cộng sản được nắm quyền lãnh đạo mãi mãi, đã cấm mọi công dân tự do hoạt động chính trị, trong khi quyền người dân được tự do hoạt động chính trị ghi rõ ràng trong Hiến pháp. Điều 4 của Hiến pháp là điều không chính danh.
Đảng và Nhà nước có trên 700 tờ báo giấy báo viết báo hình. Xã hội tự xưng là “nhân dân làm chủ: của dân, do dân, vì dân”, “cán bộ là đày tớ nhân dân”. Tai ngược thay, chính anh đầy tớ này được độc quyền ra báo, lại cấm ông chủ ra báo là sao? Marx – sinh thời từng ca ngợi nền tự do báo chí của chủ nghĩa tư bản. Marx lên án cay độc nhà vua Phổ kiểm duyệt báo chí theo kiểu nhà nước Việt Nam hôm nay lùa tất cả nền báo chí nước nhà vào cái rọ lề phải, đánh sập hơn ba trăm blog và website cá nhân trên Internet như lời khoe khoang của ông tổng cục phó Tổng cục An ninh Bộ Công an, trung tướng Vũ Hải Triều… Không có nền tự do báo chí tư sản, nền xuất bản tự do tư sản, không thể xuất hiện chủ nghĩa Marx. Nếu Karl Marx tái sinh xuất hiện giữa lòng Hà Nội hay Sài Gòn hôm nay, chắc chắn cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản sẽ bị lính của ông Vũ Hải Triều bắt ngay tắp lự.
Khi người dân không có quyền ra báo tư, lập nhà xuất bản tư… cũng có nghĩa người dân Việt Nam hiện nay không có quyền tự do ngôn luận.
Khi Hiến pháp đã cho công dân cái quyền thì người dân không phải đi xin. Hiến pháp bảo công dân có quyền sống, quyền làm người, vậy chả lẽ khi sống là phải thở, phải ăn, phải mặc, phải yêu vợ… thì cứ mỗi lần thở, mỗi lần ăn, mỗi lần mặc, mỗi lần yêu vợ… lại phải làm đơn xin phép công an à?
Hiến pháp của các nước dân chủ văn minh sinh ra để bảo vệ người dân, đảm bảo nhân quyền, dân quyền và mọi quyền tự do của dân, cốt yếu để ràng buộc kẻ cầm quyền. Hiến pháp nước ta hiện nay sinh ra hầu như để chỉ trói buộc người dân và tạo hàng nghìn kẽ hở cỡ lỗ thủng con voi chui lọt cho kẻ cầm quyền tự do đánh tráo Hiến pháp, tự tung tự tác, làm ngược lại Hiến pháp mà không bị luật pháp ràng buộc là sao?
Quốc hiệu nước ta hiện nay xưng là: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực ra có đúng không? Thưa không! Vì nền kinh tế nước ta từ năm 1986 đến nay là nền kinh tế thị trường, tức nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, một chủ nghĩa tư bản hoang dã. Vậy quốc hiệu nước ta muốn sát với “sự thật của đất nước” như gợi ý của Ban Tuyên giáo, phải đặt lại là: “Cộng hòa Tư bản Chủ nghĩa Việt Nam” mới chính danh.
Chủ nghĩa xã hội nói cho cùng là một mô hình ảo, hoàn toàn không có thật. Hồi chúng tôi theo học tại Học viện Gorky bên Liên Xô năm 1988, thường nghe dân Liên Xô định nghĩa về chủ nghĩa xã hội theo mô hình Lenin-Stalin như sau: “Chủ nghĩa xã hội là con đường vòng vèo nhất, đầy máu và nước mắt nhất, khốn nạn nhất để đi lên tư bản chủ nghĩa”. Liên Xô, với mô hình xã hội chủ nghĩa trại lính (hay trại tập trung) đã phải mất 74 năm đi vòng vèo trong máu xương, ngục tù, trong đày đọa của những quần đảo Gulag hắc ám, man rợ… để năm 1991 mới tới được nền kinh tế tự do tư bản chủ nghĩa. Quốc hiệu của nước ta như vậy là không chính danh.
Cái đuôi “Định hướng xã hội chủ nghĩa” được gắn vào đít khái niệm kinh tế thị trường của nhà nước ta hiện nay là một cái đuôi giả, một cái đuôi nhựa chạy bằng cục pin sắp thối của Trung Quốc. Theo nghĩa từ điển: “định hướng” có nghĩa là xác định phương hướng, mà điểm tới đã được xác định cụ thể. Ví dụ ông A hẹn ông B qua điện thoại, rằng mai ta gặp nhau ở Hồ Con Rùa, tập kết tại đó ăn sáng, uống café, định hướng Buôn Ma Thuột mà tới Plây-ku nhé! “Xã hội chủ nghĩa” là khái niệm ảo trên giấy, chưa có thật trên đời và sẽ không thể có thật vì nó dựa trên những nguyên lý ảo tưởng, bịa đặt, phi khoa học.
Đưa đất nước đi vào chỗ không có thật, định hướng tới cõi không có thật mà đến thì than ôi, thà giết đất nước đi còn hơn! Nên khẩu hiệu “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội” in trên đầu tờ Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, nếu theo tiêu chí “hướng về sự thật” của Ban Tuyên giáo chỉ dẫn, phải đặt tên lại cho đúng với thực chất ngữ nghĩa của từ điển là: “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa không có thật” mới đúng. Không có sự thật đi kèm, mọi lý thuyết, mọi mô hình xã hội, mọi lời hứa đều là sai trái, ảo tưởng, hứa hão, đúng như K. Marx đã nói.
Đồng nghĩa Đảng Cộng sản là đất nước, đồng nghĩa chủ nghĩa xã hội là Tổ quốc là không chính danh. Đảng Cộng sản mới chỉ có 5 triệu đảng viên, còn nhân dân Việt Nam ngoài Đảng chiếm đa số tới hơn 80 triệu dân, có phù phép kiểu gì, Đảng Cộng sản cũng không thể biến thành đất nước Việt Nam được. Đảng nghĩa là phe phái, là một nhóm người. Một nhóm người sao có thể biến thành tất cả được, nên danh từ ĐẢNG TA dùng để gọi Đảng Cộng sản là không chính danh. Liên Xô đã bỏ ra 74 năm để tìm mà không thấy chủ nghĩa xã hội đâu, chỉ thấy trại tập trung, thấy nhà tù nhiều hơn trường học. Lenin, Stalin, Mao… đã biến nhân dân các nước Nga, Tàu, Cuba, Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Campuchia, hàng chục nước Đông Âu… thành hàng tỉ con chuột bạch cho cuộc thí nghiệm máu cộng sản chủ nghĩa bằng bạo lực, bằng cải tạo áp đặt, bằng thuyết đấu tranh giai cấp tàn bạo nhưng đã thất bại hoàn toàn. Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, Đông Âu giờ đã đi theo tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội là một khái niệm ảo, nên khẩu hiện “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” là rất buồn cười, giống như nói “Yêu nước là yêu cái không có thật” vậy…
Quốc hội nước CHXHCN VN được Đảng Cộng sản và nhà nước phong cho là cơ quan lập pháp cao nhất của nhân dân Việt Nam là không chính danh. Vì thực tế, Quốc hội này chỉ là cơ quan ngoại vi của Đảng, do Đảng lãnh đạo; Quốc hội mà 98% dân biểu là đảng viên của một đảng duy nhất thì việc gọi Quốc hội này của dân là một trò hề, là không chính danh; Quốc hội này của Đảng, dân nào có quyền bính gì trong Quốc hội giả hiệu này?
Việc một nhóm người không ai khiến, tự nhiên nhảy phóc ra đấu trường xã hội ngót trăm năm nay, hung hãn cầm mác cầm lê cầm búa cầm liềm cấm cản những nhóm người khác lập phe đảng là không chính danh, không logic, không công bằng, không có luật hay chỉ là luật rừng?
Đảng Cộng sản Việt Nam không do nhân dân Việt Nam bầu ra, nên sự tồn tại của Đảng để tuyệt đối cầm quyền là không chính danh. Đúng như Mao nói rằng chế độ chuyên chính vô sản của ông ta là do súng đẻ ra: “Súng đẻ ra chính quyền”, tức là SÚNG BẦU RA CHÍNH QUYỀN… Mấy chục năm nay, người ta đã cố tình gọi nhầm SÚNG là DÂN: “súng bầu lên chính quyền thì lại nói dối là dân bầu”… Cũng giống như (giả dụ thôi, hi vọng đừng biến thành sự thật!) sau bài viết này, công an gọi tên Trần Mạnh Hảo lên… dọa bắn; Hảo ta vốn là một con cáy 64 tuổi biết cầm bút, thấy súng há mồm sắp đối thoại với mình, sợ vãi đái, nghĩ mình miệng hùm gan sứa, sức đâu cãi lại miệng súng, đành phải ký vào giấy cung khai rằng: báo cáo các anh, em đã nói sai, đã nói dối, vì Đảng ta và nhà nước ta từ xưa tới nay thật thà hơn đếm, có biết nói dối là gì đâu. Thế rồi báo An ninh hôm sau hí hửng: trước lý lẽ sắc bén và thực tế sáng ngời chính nghĩa của nhân dân, tên Hảo đã không đủ lý lẽ đối thoại, đã ăn năn hối lỗi vì dám vu cáo cho Đảng ta nói dối…
Việc Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời năm 1930 theo thuyết Marxism là không chính danh.
Marx bảo: chủ nghĩa tư bản xuất hiện với đại công nghiệp. Marx lại bảo phương thức kinh tế châu Á không nằm trong chủ nghĩa Marx. Marx phán: giai cấp vô sản là hệ quả của giai cấp tư bản. Nghĩa là tư bản đẻ ra vô sản. Trung Hoa, Việt Nam và cả châu Á, thế giới Ảrập, Ấn Độ, Mỹ Latinh, Phi Châu… trong thế kỷ thứ 19, đầu thế kỷ thứ 20 chưa hề có chủ nghĩa tư bản. Năm 1930, Việt Nam chưa có ông bố tư bản, sao lại có đứa con tên là vô sản ra đời? Bịa ra một giai cấp vô sản ảo để thành lập ra đảng của giai cấp vô sản là Đảng Cộng sản Đông Dương là không chính danh, là trái với thuyết Marxism, là xây nhà trước, xây nền nhà sau.
Sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Đông Dương nêu khẩu hiệu “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc trốc tận rễ” là không chính danh. Diệt trí thức là diệt đi hai ông đại trí thức Marx-Engels ư?
Trí thức là linh hồn của xã hội, diệt trí thức cũng có nghĩa là diệt luôn xã hội loài người. Năm 1958 – 1960 Bắc Việt Nam (năm 1975 là cả nước) tuyên bố tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội với “mo cơm và quả cà”, không thông qua con đường tư bản chủ nghĩa theo sự xúi dại của Lenin là không chính danh. Theo Marx, linh hồn của xã hội chủ nghĩa là đại công nghiệp; chỉ có nền nông nghiệp lạc hậu mà dám thí mạng cùi tiến lên xã hội chủ nghĩa là tiến lên toàn dân cùng chết đói, hay tiến lên công xã kiểu diệt chủng như Khmer Đỏ, tiến lên “đại nhảy vọt” kiểu Mao khiến mấy chục triệu người chết đói, dân chúng phải ăn thịt cả con mình như cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội do Thông tấn xã Việt Nam vừa phát hành đã kể.
Năm 1986, theo gương Trung Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam thay vì chôn chủ nghĩa tư bản (như Marx-Engels dạy) đã quay ngược lại chôn chính học thuyết cộng sản, bằng cách xây dựng nền kinh tế tự do đa thành phần tư bản chủ nghĩa, đưa nhân dân Việt Nam thoát khỏi chết đói. Theo Marx dạy: kinh tế nào, chính trị ấy: hạ tầng cơ sở kinh tế quyết định thượng tầng kiến trúc chính trị. Nay, kinh tế Việt Nam là tư bản tự do mà chính trị vẫn giữ nền chính trị độc tài xã hội chủ nghĩa là sai quy luật, là không chính danh, là đầu chuột đuôi voi, là ông nói gà bà nói thóc lép, là hồn Trương Ba, da hàng thịt…
Marx–Engels từng công khai tuyên bố trong trước tác của mình: “Chúng tôi không có ý định đoán định tương lai một cách giáo điều mà mong muốn dùng phương pháp phê phán thế giới cũ để tìm được một thế giới mới… Việc kiến tạo và tuyên bố một lần và mãi mãi những giải đáp cho các vấn đề của mai sau không phải là việc của chúng tôi…”. Rõ ràng, chính Marx và Engels đã coi học thuyết của mình chỉ là những giả thuyết, những phép thử, những phỏng định về tương lai, tuyệt nhiên không giáo điều cho lý thuyết của mình là chân lý vĩnh hằng. Những ai đã, đang coi học thuyết Marx là chân lý bất biến là đang chống Marx, là muốn dùng Marx giả, Marx dỏm bịt mắt trí thức và nhân dân để quyết câu giờ giữ quyền lực là không chính danh.
Theo định đề: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” của Marx, chúng ta thấy thực tế đã không chấp nhận cuộc thí nghiệm XÓA TƯ HỮU hãi hùng nhất trong lịch sử loài người của Marx- Engels-Lenin với tham vọng “XÓA TƯ HỮU, XÓA CÁ NHÂN, XÓA NHÀ NƯỚC, XÓA MÂU THUẪN, XÓA ĐẢNG CỘNG SẢN, XÓA CÁC GIAI CẤP VÀ ĐẢNG CỦA NÓ, XÓA CHÍNH BIỆN CHỨNG PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG MỘT XÃ HỘI CỘNG SẢN ÁO TƯỞNG PHI BIỆN CHỨNG – NƠI KHÔNG CÓ CÁI DỐI TRÁ, KHÔNG CÓ CÁI ÁC ĐỘC VÀ CÁI XẤU XA, NƠI TUYỆT ĐỐI TỰ GIÁC, TUYỆT ĐỐI TỰ DO, TUYỆT ĐỐI GIÀU CÓ, TUYỆT ĐỐI KHÔNG CÓ NGOẠI TÌNH, KHÔNG CÕN HÔN NHÂN, KHÔNG CÕN GIA ĐÌNH KIỂU CŨ, KHÔNG CÕN NGÂN HÀNG, KHÔNG CÕN TIỀN TỆ…”. Đó là một xã hội bịa đặt không có thật: vì không có cái ác thì cái thiện cũng bị triệt tiêu, không có cái ngụy thì cái chân cũng biến mất, không có cái xấu thì cái đẹp cũng chẳng còn…
Một trăm sáu mươi hai năm từ khi “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” của Marx–Engels ra đời đến nay, hàng trăm triệu sinh mạng đã bị giết, hàng tỉ người bị tù đầy, bị ngược đãi để “các vị lãnh tụ kính yêu” làm cuộc thí nghiệm đẫm máu cải tạo thế giới từ TƯ HỮU sang CÔNG HỮU, từ TƯ BẢN sang VÔ SẢN, từ CÁ NHÂN sang TẬP THỂ, XÓA QUỐC GIA chỉ còn QUỐC TẾ, XÓA HOÀN TOÀN THẾ GIỚI CŨ, NHÂN LOẠI CŨ chỉ còn MỘT THẾ GIỚI MỚI TINH, NHÂN LOẠI MỚI TINH KHÔNG CÕN TRUYỀN THỐNG, KHÔNG CÕN LỊCH SỬ, KHÔNG CÕN QUÁ KHỨ, KHÔNG CÕN TÔN GIÁO… Chao ôi, khi một con người không còn quá khứ, một dân tộc không còn lịch sử, con người ấy, dân tộc ấy sẽ biến thành tinh tinh, xã hội tinh tinh hay thành những cục bột biết ca hát?… Rút cục, cuộc thí nghiệm cộng sản kinh hồn trên phạm vi toàn thế giới đã hoàn toàn thất bại. Những nước cộng sản cứng đầu nhất như Bắc Triều Tiên, Cuba hiện nay cũng đang rục rịch thí nghiệm mô hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, tập toẹ học lại những bước đi làm giàu vỡ lòng nhân loại đã có từ trước khi Marx ra đời. Đây là sự thật không thể nào chối cãi, dù cãi cối cãi chày bằng còng số tám hay nhà tù, họng súng v.v…
Cám ơn Marx, đã cho chúng tôi đề bài “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” để làm một bài tập làm văn về sự thật này. Cám ơn ngài cố Tổng thống nước Ba Lan tự do Lech Kaczyński đã cho chúng tôi ý tưởng rất hay: chỉ có sự thật mới giải phóng con người, làm chủ đề bài tham luận. Chúng tôi cũng xin cám ơn tiêu đề của cuộc hội thảo “Văn học nghệ thuật hướng về sự thật đất nước” của Ban Tuyên giáo Trung ương đã gợi ý, khích lệ chúng tôi dám liều mạng nói lên những sự thật cay đắng nhất, khủng khiếp nhất của đất nước chúng ta hiện nay, những sự thật chết người, ai ai cũng biết mà vì sợ tù tội nên không ai dám nói ra.
Viết đến đây, chúng tôi chợt nhớ đến truyện “Bộ long bào của vị hoàng đế” của văn hào Andersen. Thằng bé trong thiên truyện đã liều mạng xé toang bộ long bào hoang tưởng của vị hoàng đế kia bằng cách hét thật to: ông vua cởi truồng! Tiếng kêu thất thanh của chân lý ấy có làm đám đông đang bị quyền lực hôn mê, luôn miệng tung hô vị hoàng đế mặc bộ long bào đẹp nhất tỉnh ra hay không?
Nhưng hình như ngay sau khi gọi sự vật bằng tên của nó, thằng bé do sự thật, do tự do phái đến đã biến mất. Do đó, mới còn biết bao nhiêu ông vua triết học cởi truồng, vua chính trị cởi truồng, vua cách mạng cởi truồng, vua chủ nghĩa cởi truồng… đang đi nhông nhông ngoài xã hội, ngoài phố xá, đã và đang được những đám đông giả vờ cuồng tín hòng trục lợi xúm vào vạn tuế, ca ngợi các ngài khoác những bộ long bào tuyệt vời của trần gian…
Sự thật giản dị nhường ấy, sao bị cả đám đông lờ đi? Mới hay sự cám dỗ của dối trá có bùa ngải quỷ sứ, mê hoặc con người trong bóng tối, trong đe dọa, trong hấp lực của củ cà rốt treo trước miệng con lừa… Sự thật chỉ có thể tồn tại công khai dưới ánh sáng mặt trời. Xã hội của những hội kín vây bủa con người trong lừa mị, trong sợ hãi u u minh minh, luôn xua đuổi và cầm tù sự thật. Chối bỏ sự thật, những xã hội do băng đảng hội kín cầm quyền hầu như không bao giờ đi cùng đường với lẽ phải và công lý.
Chúng tôi không dám làm thằng bé trong thiên truyện kia của Andersen; làm vị thiên sứ của sự thật này, coi chừng khả năng biến mất là điều có thể xảy ra. Hãi quá! Chúng tôi chỉ xin kể ra ba vị nhà văn Việt Nam hình như cũng đang thử đóng vai trò của thằng bé ấy, vai trò thiên sứ của sự thật, của tự do.
Đây là lời của nhà văn Đỗ Chu bùi ngùi, chua xót, khi ông nói về sự lãnh đạo của Đảng với nhà văn; sao nhà văn giống chú cún con ve vẩy đuôi theo ông chủ trong sân nhà thế: “Tớ yêu Đảng như yêu vợ. Vợ còn sống thì tớ nghe vợ. Vợ chết thì tớ lập bàn thờ khấn vái cho đến chết. Đảng cũng là vợ của tớ. Đảng bẩn thì tớ mua xà phòng cho Đảng tắm. Mua nước hoa cho Đảng thơm. Đảng nói thì không được cãi. Đảng bảo ăn là ăn. Đảng bảo uống là uống. Đảng bảo nằm là nằm. Đảng bảo lên giường là lên gường. Đảng bảo ra đường là ra đường…” (Trích bài “Nhà văn Đỗ Chu yêu Đảng như yêu vợ” của Nguyễn Trọng Tạo ngày 13/7/2010). Về việc này, mới thấy Nguyễn Vĩ xưa thánh thật, khi ông viết: “nhà văn An Nam khổ như chó!”.
Đây là mấy câu thơ của nhà văn, nhà thơ Nguyễn Đình Chính (con trai cố nhà văn Nguyễn Đình Thi, người rất nhiều năm trước và sau 1975 từng làm Tổng Thư ký – ngày nay gọi là Chủ tịch – Hội Nhà văn Việt Nam): “Mấy thằng bạn văn nghệ chửi đổng hát hay / Cổ họng rắn hổ mang trơn tuột liếm mồi trong các HỘI ĐOÀN / hót hít chính trị như chó hít hóng cứt…” (Trích trong bài thơ “Đêm Sài Gòn” in trong tập thơ Chẹc chẹc của Nguyễn Đình Chính, do Tân Hình thức Publishing Club ấn hành trên mạng 2010).
Đây là nhà văn đại tá công an Mai Vũ, trước Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ XIII, đã lên tiếng đòi tự do sáng tác, mặc dù từ năm 1987, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã cởi trói cho các nhà văn: “Đây là vấn đề nhạy cảm mà không phải ai cũng có dũng khí dám nói thật. Nhằm thiết lập một trật tự xã hội tư duy đồng chiều, chúng ta đã chính trị hóa mọi đời sống xã hội. Điều đó thật tai hại, nó làm khô héo tinh thần dân tộc. Chính trị hóa khoa học đã dẫn đến phủ nhận chân lý khách quan, làm méo mó khoa học. Trong lịch sử Xô Viết trước kia, đã có thời người làm vườn Lưxenkô – Mitsurin được tôn vinh như những nhà cải cách vĩ đại, còn Mooc găng, Menđen là những kẻ phục vụ chủ nghĩa tư bản vì thuyết gen di truyền. Kết quả, nhà di truyền học thiên tài Vavilôp đã phải tự sát, còn nền di truyền học nước Nga thì lụn bại, để lại một vết nhơ đau đớn trong đời sống khoa học xã hội Xô Viết. Đó là vụ ngụy khoa học lớn nhất trong lịch sử nhân loại.
Chính trị hóa giáo dục cũng chỉ đẻ ra những chiến binh đánh bom tự sát, chứ không đẻ ra những công dân xây dựng tương lai.
Hội Nhà văn không phải là dàn hợp xướng để hát theo cái gậy chỉ huy của người nhạc trưởng. Nó là lãnh địa của những tư duy và sáng tạo cá nhân, nó là một tổ chức xã hội nghề nghiệp tự nguyện của các nhà văn lấy sứ mạng phục vụ Tổ quốc và nhân dân trên hết.
Nhà văn viết theo mệnh lệnh của trái tim, mà trái tim nhà văn thuộc về Tổ quốc và nhân dân. Anh ta là tội đồ và đáng nguyền rủa nếu thóa mạ Tổ quốc và dân tộc. Còn khuynh hướng chính trị tùy thuộc quyền lựa chọn của mỗi nhà văn. Hãy để con ngựa Văn tung vó trên cánh đồng bát ngát của tự do” (“Về Hội nhà văn của chúng ta” của Mai Vũ, in trên website Trần Nhương ngày 11-7-2010) Tiếp nối ba nhà văn trên, chúng tôi xin mời quý vị đọc lại bài thơ “Bài ca sự thật” của chúng tôi (Trần Mạnh Hảo) đã in trên báo Tuổi trẻ số tất niên ngày 24- 01-1987
BÀI CA SỰ THẬT
Sự thật của tôi
Sự thật của anh
Sự thật của chúng ta
Sự thật của mọi người?
Nhân loại có bao thời
Sự dối trá làm quan toà phán xử
Bru-nô ơi trái đất vẫn tròn
Mà chân lý nghìn sau còn trả giá
Nhưng đất nước vẫn đi tìm sự thật
Trong câu hát có mồ hôi nước mắt
Có con nghê đá đầu đình cười cợt các triều vua
Có thằng Bờm chẳng tin lời hứa hão
Cái quạt mo không để phú ông lừa
Vua Hùng ơi Người đi tìm sự thật
Bằng cách ngày đầu năm xuống ruộng cày bừa
Bao triều đại xưa đổ vì ưa nói dối
“Muốn nói gian làm quan mà nói”
Sự thật giấu trong nhà dân đen
Sự thật từng vật vờ đi như ăn mày đầu đường xó chợ
Sự thật làm anh hề, chú mõ
Sự thật như nàng Thị Kính oan khiên
Sự thật trốn vào ngụ ngôn, ngạn ngữ sấm truyền
Sự thật có khi mượn Xuý Vân mà giả dại
Sự thật chiếc lá đa bay qua bao thời đại
Bay về đây trời nổi can qua
Con vua thất thế quét chùa sãi ơi!
Vĩnh biệt chú Cuội
Vĩnh biệt thành tích ma, báo cáo láo thành thần
Bệnh hình thức gọi sai tên sự vật
Người đói phải nói lời no
Vị đắng sao lại kêu là mật?
Ngục tù mang nhãn hiệu tự do!
Vĩnh biệt khái niệm quét vôi và từ ngữ nước sơn
Đạo đức dính trên đầu môi chót lưỡi
Vĩnh biệt những bóng ma cơ hội
Những cái đầu già cỗi tự bên trong
Những con mắt nhìn người bằng bóng tối
Có nhận ra tia nắng mới trong lòng ?
Tôi là người tập yêu sự thật
Tập nghe nên có lúc ù tai
Tập nhìn nên chói mắt
Đất nước đổi thay
Cơn đau đẻ những dòng sông quằn quại!
Hạt thóc và hạt máu có bao giờ nói dối?
Bốn nghìn năm dân tộc tôi
Đi từ bờ bên kia
Đến bờ bên này của sự thật
Để mỗi con người hôm nay trên mặt đất
Được cầm trong tay một tia nắng mặt trời…
Sài Gòn ngày 15-1-1987
Trần Mạnh Hảo
_____________
Để kết thúc bản tham luận, xin kính mời quý vị cùng chúng tôi hô 3 khẩu hiệu sau:
Khẩu hiệu một:
KHÔNG CÓ SỰ THẬT, KHÔNG CÓ LẼ PHẢI VÀ CHÂN LÝ
(xin hô ba lần: không có, không có, không có)
Khẩu hiệu hai:
CHỈ CÓ SỰ THẬT MỚI GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
(xin hô ba lần: chỉ có, chỉ có, chỉ có)
Khẩu hiệu thứ ba:
SỰ THẬT LÀ TIÊU CHUẨN CỦA CHÂN LÝ
(xin hô ba lần: tiêu chuẩn, tiêu chuẩn, tiêu chuẩn)
Xin cám ơn quý vị.
Monday, August 02, 2010 10:56 PM ( #1 )
(Cali Today)
Tham khảo: TRẦN MẠNH HẢO – CHỈ CÓ SỰ THẬT MỚI GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI, GIẢI PHÓNG VĂN HỌC VÀ ĐẤT NƯỚC
Jul 28, 2010
(Tham luận của Trần Mạnh Hảo trong Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ XIII, soạn theo thư “mời viết tham luận” của nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhờ nhà thơTrần Đăng Khoa đọc giùm – cám ơn!)
“Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý”
K. Marx
Kính thưa quý đồng nghiệp cầm bút,
Thưa quý vị quan khách và quý vị lãnh đạo,
Thói thường, con người sợ món gì nhất? Sợ ma quỷ ư? Không! Sợ vợ ư? Không! Sợ công an ư? Không! Sợ kẻ cầm quyền ư? Không! Sợ chết ư? Không!
Theo chúng tôi, con người trên mặt đất này sợ nhất sự thật! Vì vậy, ngạn ngữ Việt Nam từng nói: “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”. Người Trung Hoa từ thượng cổ đã nói: “Trung ngôn nghịch nhĩ”. Người Ba Tư cổ khuyên: “Nếu nói ra sự thật, anh sẽ chết”. Người Ai Cập xưa cảnh cáo: “Khi sự thật bị bỏ quên quá lâu, một hôm nó thức dậy thành ngày tận thế”. Ngạn ngữ Tây Tạng tiền Phật giáo khuyên: “Mày chỉ được phép nói ra sự thật, nếu mày làm vua”. Thổ dân Úc bảo: “Ai nhìn thẳng vào sự thật sẽ bị mù mắt”. Lịch sử nhân loại đã ghi nhận hàng triệu con người từng dám cả gan nói lên sự thật mà bị mất mạng, bị tù tội hay bị quản thúc tại gia.
Đã có bao nhiêu lý thuyết chính trị thề bồi giải phóng con người, bao nhiêu cuộc lật đổ, cuộc cách mạng tuyên thệ giải phóng con người, giúp con người hoàn toàn tự do, sau khi đã giết hàng triệu triệu sinh mạng. Rút cuộc, con người hình như vẫn chưa được hoàn toàn giải phóng, chưa hoàn toàn được tự do, con người vẫn còn sợ hãi vì bị sự dối trá thống trị? Một số đất nước, một số dân tộc trên hành tinh vẫn còn bị nhốt trong nhà ngục có tên là dối trá. Cần phải làm một cuộc cách mạng của sự thật mới mong giải thoát cho nhân dân khỏi ngục tù kia.
Chìa khóa cuối cùng giúp con người được giải phóng, được hoàn toàn tự do, chính là sự thật, một sự thật không còn bị giấu như loài mèo giấu của quý. Karl Marx đã tôn vinh sự thật lên tột cùng của nhận thức luận và phương pháp luận: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” :
không có sự thật đi kèm, mọi kết luận, mọi lý thuyết, mọi khế ước, mọi hội kín, mọi cuộc cách mạng đều chỉ là ngụy lý, ngụy tạo, là lừa bịp. Cố Tổng thống Ba Lan Lech Kaczyński (1949-2010) người vừa bị tử nạn trong vụ rơi máy bay trên đường bay đến rừng Katyn tham dự lễ kỷ niệm 22.440 người con ưu tú của dân tộc Ba Lan bị Hồng quân Liên Xô chôn sống hồi đầu chiến tranh thế giới thứ hai; trong bài diễn văn viết sẵn mà ông không còn cơ hội để đọc, có đoạn viết như sau: “Sự thật, kể cả sự thật đau đớn nhất luôn luôn giải phóng cho con người. Sự thật gắn kết. Sự thật mang lại sự công bằng. Sự thật chỉ ra con đường hòa hợp.”
Lấy ý tưởng từ câu cách ngôn kinh điển của K. Marx và lời trăn trối thiêng liêng thống thiết lớn lao của ngài cố Tổng thống Ba Lan trên, chúng tôi viết bản tham luận theo yêu cầu của Hội Nhà văn Việt Nam này.
Dostoyevsky, nhà văn vĩ đại nhất của chủ nghĩa hiện thực Nga và thế giới, từng tuyên ngôn rất hoa mỹ, rằng: “Cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới”. Chúng tôi thêm: “Sự thật sẽ cứu chuộc thế giới”. Sự thật sẽ cứu chuộc nền văn học của chúng ta, cứu chuộc Tổ quốc ta, nếu chúng ta cả gan một lần cùng nhau: “Gọi sự vật bằng tên của nó” theo cách ngôn của phương Tây.
Nếu Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam thử một lần hợp tác với đất nước, với dân tộc Việt Nam mở HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG CHỐNG GIẶC NÓI DỐI để tìm ra con đường cứu nguy dân tộc đang trên đà suy vong, thì công này của quý vị rất lớn. Ông cha chúng ta đã đánh thắng giặc Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh… để bảo tồn đất nước. Tất cả các thứ giặc trên cộng lại cũng không ghê gớm bằng giặc nói dối đang tàn phá Tổ quốc ta, giống nòi ta. Lần này, nếu nhân dân ta không vùng lên đáng tan BỌN GIẶC CÓ TÊN LÀ DỐI TRÁ, chắc chắn đất nước ta sẽ bị kẻ thù phương Bắc nuốt chửng, như mấy nghìn năm trước chúng đã nuốt chửng toàn bộ các dân tộc Bách Việt từng định cư lâu dài phía nam sông Dương Tử.
Chúng tôi viết bản tham luận này cũng để nhằm hưởng ứng cuộc hội thảo “Văn học nghệ thuật phản ánh hiện thực đất nước hôm nay” do Ban Tuyên giáo Trung ương vừa tổ chức tại Đà Lạt trong hai ngày 12-13/7/2010 với hơn hai trăm văn nghệ sĩ và các nhà lý luận phê bình hàng đầu Việt Nam tham dự. Cuộc hội thảo dũng cảm kêu gọi văn nghệ sĩ từ trên mây tỉnh giấc, quay về với hiện tình đất nước, do GS.TS. Phùng Hữu Phú (Ủy viên Trung ương Đảng, phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, chủ tịch Hội đồng Lý luận Phê bình Trung ương), chỉ đạo. Theo Đại từ điển tiếng Việt trang 803, từ “hiện thực” có nghĩa như sau: “Cái có thật, tồn tại trong thực tế” (Bộ Giáo dục & Đào tạo–Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam-NXB Văn hóa Thông tin xuất bản 1998). Như vậy, khái niệm “hiện thực” chính là sự thật đã và đang xảy ra trong thực tại trên đất nước ta. Cuộc hội thảo của Ban Tuyên giáo Trung ương vừa qua có thể được gọi bằng một cách khác: “Văn học nghệ thuật phản ánh sự thật của đất nước hôm nay” . Muốn phản ánh được sự thật của đất nước hôm nay, việc trước tiên của chúng ta là phải nhìn ra sự thật, gọi đúng tên sự vật, không phải sự thật tô hồng hay sự thật bôi đen, mà sự thật đúng như nó đang tồn tại khách quan quanh ta.
Lâu nay, vẫn nghe dân gian xì xào nửa hư nửa thực rằng: “Các thế lực thù địch (xin lỗi, tiên sư nó) nói cái gì hình như cũng đung sắc đúng, Ban Tuyên giáo Trung ương (xin lỗi) nói cái gì hình như cũng sờ ai sai…” thì quả là chưa chắc; bằng chứng là trong hoàn cảnh đất nước mà sự thật trốn biệt như hôm nay, thì việc Ban Tuyên giáo Trung ương kêu gọi nhà văn chúng ta hãy mở mắt, từ bỏ giấc nam kha vô tích sự quá dài để nhìn vào sự thật, nói lên sự thật đất nước, là một việc làm quá đúng.
Tất nhiên, sự thật mà Ban Tuyên giáo Trung ương kêu gọi nhà văn nhìn nhận được nhìn bằng mắt thường, chứ không phải sự thật bịt mắt bắt dê, hay sự thật được nhìn bằng mắt kẻ khác, nhìn bằng những thấu kính ảo, kính lồi, kính lõm, hay chiếc gương chiếu yêu, chiếu bóng…
Thâm ý của Ban Tuyên giáo Trung ương hình như muốn chúng ta tìm lại phong trào “Nói thẳng, nói thật” thời kỳ Đổi mới năm 1986 -1987 do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh phát động?
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, trong cuộc gặp mặt văn nghệ sĩ năm 1987, đã làm gương nói thẳng nói thật, khi ông đặt vấn đề rốt ráo cho văn học nghệ thuật là nhà nghệ sĩ phải có tự do sáng tác; ông nói: “Cởi trói như thế nào, cởi trói nói ở đây trước hết là Đảng phải cởi trói cho các đồng chí… Tôi cho rằng khi những sợi dây ràng buộc được cắt đi, sẽ làm cho văn học nghệ thuật như con chim tung cánh bay lên trời xanh…”.
Rõ ràng, qua lời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Đảng đã thừa nhận từng trói văn nghệ sĩ và trí thức rất nhiều năm. Lần này, Ban Tuyên giáo Trung ương, thông qua cuộc hội thảo cấp nhà nước “Văn học nghệ thuật hướng vào sự thật của đất nước” đã khuyến khích kẻ hèn này là chúng tôi nói lên sự thật, toàn là những sự thật chết người, sự thật mà chính quyền cố tình giấu diếm vì món lợi của quyền lực, với sự ngụy biện chống lại lẽ phải, chống lại chân lý: “Nói ra sự thật lúc này không có lợi” . Chả lẽ vì cái lợi, vì miếng ăn mà chúng ta đành phải nói dối hết đời ông đến đời cha, hết đời con đến đời cháu hay sao? Vậy chừng nào nhà nước Việt Nam mới cho người dân chúng tôi công khai nói ra sự thật đây? Chúng tôi đành lấy lời dạy của K. Marx làm bùa hộ mệnh: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” để một lần cuối cùng nói ra sự thật của đất nước chúng ta, dẫu có bị bị làm phiền, thậm chí bị tù đầy cũng mặc. Một kẻ nói dối, một dân tộc nói dối “lộng giả thành chân”, là một kẻ, một dân tộc không có tự do, không có độc lập, không có dân chủ, không có chân lý và lẽ phải… Khi một kẻ, một dân tộc phải núp vào sự dối trá để tồn tại, kẻ đó, dân tộc đó là một kẻ yếu, một dân tộc yếu đang trên đường suy vong. Chỉ có kẻ mạnh, kẻ tự tin, kẻ có liêm sỉ, có đạo đức mới không sợ sự thật, dù là sự thật đau đớn nhất, khủng khiếp nhất mà thôi.
Được lời như cởi tấm lòng, chúng tôi xin kể ra SỰ THẬT ĐẤT NƯỚC qua mắt mình, cái mà nền văn học của chúng ta lâu nay lảng tránh, làm ngơ, mặc “quốc gia hưng vong”, “ thất phu” thay vì “ hữu trách” thì hầu như cánh “thất phu” nhà văn thảy đều “tắc trách”… Chúng tôi mong 700 tờ báo của lề phải, tức báo của Đảng và nhà nước, hãy hạ cố chỉ ra những sự thật mà chúng tôi gọi tên trong bài tham luận này đúng hay sai. Còn nếu quý vị dùng công an hay nhà tù để đối thoại với chúng tôi thì quý vị đã mặc nhiên thừa nhận chúng tôi nói đúng; chỉ vì đuối lý mà quý vị mới phải dùng hạ sách là làm phiền chúng tôi, đe dọa chúng tôi thì quý vị đã không chính danh quân tử, dùng nền chính trị bá đạo ứng xử với người dân, khi người dân dám nói lên sự thật để hi vọng trên đất nước đau thương và cam chịu này le lói một nền chính trị vương đạo, dựa vào sự thật, lương tri và lẽ phải. Trong hàng trăm sự thật nhãn tiền của đất nước, chúng tôi chỉ xin kể ra ba sự thật mà thôi.
SỰ THẬT MỘT
Chưa bao giờ số phận dân tộc ta, đất nước ta có nguy cơ tiêu vong như hôm nay: nước nhà đang bị giặc ngoại bang xâm lấn bằng cuộc chiến tranh ngọt ngào, chiến tranh ôm hôn thắm thiết và tặng hoa, tặng quà anh anh chú chú, bằng cách chiếm dần hai quần đảo chiến lược Hoàng Sa và Trường Sa, lấn chiếm dần dần biên giới đất liền và hải đảo, khiến nguồn lợi biển vô cùng tận của ta rồi sẽ mất hết, dân tộc ta không còn đường ra đại dương, coi như tiêu. Ngoại bang dung chiêu bài “ý thức hệ” và “16 chữ vàng” làm dây trói vô hình, trói buộc Đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam phải nhân nhượng kẻ xâm lược hết điều này đến điều khác. Trên đất liền, ngoại bang dùng con bài khai thác bauxite, mua đất thời hạn 100 năm của 18 tỉnh lấy cớ trồng rừng, thực chất là công cuộc chiếm đất di dân theo kiểu vết dầu loang, theo kiểu “nở hoa trong long địch”. Đến nỗi, khi giặc chiếm Hoàng Sa rồi đặt tên quận huyện cho quần đảo này, sinh viên thanh niên biểu tình chống giặc lại bị nhà nước Việt Nam bắt. Vậy, nhà nước chúng ta hiện nay đứng về phía ngoại bang xâm lược hay đứng về phía nhân dân ta? Cũng chưa bao giờ như hôm nay, thiên nhiên và môi trường sống trên nước ta lại bị phá hoại khủng khiếp như thế: rừng bị triệt phá gần hết, sông ngòi đồng ruộng cạn kiệt nguồn nước, lụt lội kinh hoàng, khí trời bị ô nhiễm tới mức cuối cùng, nước mặn xâm hại phá hủy các đồng bằng. Chỉ cần một trận mưa lớn là Hà Nội, Sài Gòn biến thành sông do quy hoạch xây dựng phản khoa học. Hạt lúa, củ khoai, mớ rau, tôm cá, thịt gia súc, gia cầm cũng đang bị các chất hóa học độc hại chứa trong thức ăn, các chất tăng trưởng, chất bảo quản độc hại ám sát, khiến sinh tồn của giống nòi có cơ biến dạng…
Đạo đức xã hội tha hóa tới mức cuối cùng, con người hầu như không còn biết tới liêm sỉ và lẽ phải… Một ông Chủ tịch tỉnh Nguyễn Trường Tô và rất nhiều quan chức cao cấp trong tỉnh Hà Giang chơi gái vị thành niên do ông hiệu trưởng trường trung học Sầm Đức Xương bắt các cháu nữ sinh là học sinh trong trường làm điếm, nhằm cống nạp cho các quan đầu tỉnh. Nghe nói ông Nguyễn Trường Tô, ông Sầm Đức Xương từng là những người nhiều năm liền được bằng khen vì thành tích học tập và làm theo đạo đức ****. Một sinh viên Nguyễn Đức Nghĩa từng là đoàn viên thanh niên cộng sản ưu tú, đã ra tay giết và cướp của chính người yêu cũ của mình một cách man rợ, không phải là cá biệt trong một xã hội con giết cha, vợ giết chồng, anh em giết nhau được đưa tin đầy tràn trên các trang báo lề phải. Lối sống vô đạo đức, hành vi vô luân, con người ứng xử với con người man rợ hơn dã thú đang là vấn nạn quốc gia, có thể đưa một dân tộc vốn có văn hóa, văn hiến bốn nghìn năm tới chỗ diệt vong… Không nhìn ra những nguy cơ chết người này, liệu 100 năm nữa Tổ quốc Việt Nam chúng ta còn tồn tại không? Dòng giống con Lạc cháu Hồng còn tồn tại không?
Nền giáo dục Việt Nam hôm nay là một nền giáo dục thiếu trung thực, đúng như ý kiến của ông Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã công nhận. Đạo đức trong giáo dục Việt Nam hôm nay đồng nghĩa với dối trá: thày dối trá thày, trò dối trá trò, quản lý giáo dục báo cáo láo cốt lấy thành tích, nạn mua bán bằng, bán đề thi, mua quan bán tước đang là đại họa của nền giáo dục.
Hầu hết sách giáo trình, sách giáo khoa… là sách đạo văn. Cán bộ có chức có quyền đua nhau làm thạc sĩ, tiến sĩ… lấy bằng thật nhưng học giả. Nạn dùng tiền mua bằng cấp, mua học hàm học vị đang diễn ra công khai trong cái chợ trời giáo dục Việt Nam. Việc Hà Nội vừa qua đưa chỉ tiêu “xóa mù tiến sĩ” cho cán bộ công nhân viên nhà nước đã nói lên học vị tiến sĩ chẳng còn giá trị gì cả. Có lẽ trong vài năm tới, sau việc Bộ Giáo dục ra chỉ tiêu đào tạo thêm 23.000 tiến sĩ, sẽ dẫn tới chiến dịch xóa mù tiến sĩ trên phạm vi toàn dân. Nhiều ông cán bộ cấp cao có học vị tiến sĩ nhưng chưa có bằng tốt nghiệp đại học, thậm chí có vị chưa có bằng tốt nghiệp cấp 2 vẫn lấy được học vị tiến sĩ. Việc chính trị hóa môn văn, môn lịch sử, môn triết học, chính trị hóa nền giáo dục… đã tạo cơ sở cho sự dối trá làm bá chủ đất nước. Giáo dục như thế sao có thể đào tạo ra những công dân chân chính? Đây là dấu hiệu suy vong lớn nhất của dân tộc do nền giáo dục thiếu tính nhân văn, thiếu tính chân thật gây ra. Những quả bom B52 tinh thần là nền giáo dục đi chệch hướng chân thiện mỹ đang rải thảm lên tinh thần dân tộc, thì ai là người phải chịu trách nhiệm trước lịch sử đây?
Than ôi, sau những quả bom tinh thần có tên là giáo dục mà chế độ tự ném vào mình, chỉ cần ngoại bang ném bồi thêm mấy quả bom thật vào hai đập thủy điện Sơn La và Hòa Bình là đồng bằng Bắc Bộ và cả Hà Nội sẽ biến mất, dân tộc sẽ biến mất… Hai đập thủy điện khổng lồ trên nghe đâu lại nằm trên vết nứt động đất… mới hãi hùng làm sao? Đầu nguồn sông Hồng, đầu nguồn sông Mê Kông, Trung Quốc đã và đang xây hàng trăm đập thủy điện, khiến hai con song chính của đất nước khô cạn dần, không còn đủ nguồn nước tưới cho hai đồng bằng chính nuôi sống dân tộc. Cách Móng Cái 60 km, tại Phòng Thành, Trung Quốc đang xây nhà máy điện hạt nhân rất lớn; nếu có sự cố kiểu Chernobyl vào mùa gió bấc, Hà Nội và dân đồng bằng Bắc Bộ có thể sẽ chết hết vì nhiễm phóng xạ hạt nhân…
SỰ THẬT HAI
Chưa bao giờ như hôm nay, trên đất nước ta, giặc nội xâm có tên là tham nhũng lại hoành hành ngang nhiên, kinh hãi như dịch hạch đến thế. Dân có tham nhũng không? Không!
Thế thì ai là giặc nội xâm, là giặc tham nhũng? Thưa, chính quyền! Chỉ kẻ có chức có quyền mới tham nhũng được mà thôi. Vụ tham nhũng mới nhất như một đòn hiểm ác đánh một cú chí tử vào đất nước là tập đoàn Vinashin – một nấm đấm thép của chính phủ – đã cướp đi của nhân dân số tiền khổng lồ là 80.000 tỷ đồng. Cứ thử làm tròn dân số nước ta là 90 triệu người (thực ra dân số Việt Nam mới chỉ trên 85 triệu dân), vị chi mỗi người dân vừa bị tập đoàn quốc doanh Vinashin cướp đi gần 9.000.000 đ. Chín triệu đồng với người nông dân là một nguồn vốn lớn: một gia đình nông dân có bốn nhân khẩu chẳng hạn, đã vừa bị Vinashin cướp đi nhãn tiền 36.000.000 đ. Đã có bao nhiêu tập đoàn Vinashin cướp hết tiền của nhân dân trong quá khứ, trong hiện tại chưa bị phát hiện? Những nấm đấm thép của chính phủ như các tập đoàn kinh tế: tập đoàn Than, tập đoàn Điện, tập đoàn Khoáng sản… đã và đang đấm chí tử vào hầu bao dân nghèo Việt Nam. Theo kiểm toán nhà nước, năm 2008, các tập đoàn kinh tế – nắm đấp thép – đã làm thất thoát 10 tỷ đô la. Năm 2009, số thất thoát (đổ tội cho lỗ vốn) cũng không nhỏ hơn số 10 tỷ đô la năm trước. Các tập đoàn kinh tế quốc doanh, các công ty quốc doanh đang là đại họa cho quốc gia; chứng tỏ thành phần kinh tế rường cột của mô hình xã hội chủ nghĩa này đã hoàn toàn thất bại.
Về quốc nạn tham nhũng, bà Phạm Chi Lan, chuyên viên kinh tế cao cấp của chính phủ đã phải cay đắng thừa nhận “bọn nắm đấm thép – chúng nó ăn hết tiền của dân rồi” như sau: “Một khi vẫn còn các ông lớn chủ đạo vẫn ngốn hết nguồn lực của đất nước và thâu tóm hết quyền thiết kế chính sách có lợi cho mình, thì làm sao thằng nhỏ động lực kinh tế tăng tốc được” (Tuần Việt Nam 22/07/2010).
Tại sao nhà nước ta hiện nay vốn có hai chính quyền cồng kềnh, chồng chéo nhau, giẫm đạp lên nhau: một chính quyền theo hệ Đảng và một chính quyền theo hệ nhà nước với hàng vạn ban thanh tra, hàng vạn chi bộ bốn năm sáu tốt, với hầu hết mấy triệu đảng viên gương mẫu đều đã học tập tốt đạo đức Bác Hồ, mà giặc tham nhũng lại ngang nhiên hoành hành trắng trợn từ vi mô đến vĩ mô đến như vậy? Quan tham nhìn từ xã trở lên không thấy lao động chân tay, không thấy lao động trí óc, chỉ sử dụng một thứ lao động có tên là LAO ĐỘNG LÃNH ĐẠO mà ai ai cũng giàu có hơn dân thường hàng trăm, hàng nghìn, hàng vạn, hàng triệu, hàng tỉ lần là sao?
Chung quy lại, có phải là do thể chế sai, mô hình chính trị sai: VỪA ĐÁ BÓNG VỪA THỔI CÕI, VỪA ĐI THI, CHẤM GIẢI VỪA PHÁT GIẢI VỪA ĐƯỢC LÃNH GIẢI. NHÀ NƯỚC – ĐẢNG MỘT MÌNH MỘT CHỢ: VỪA THAM NHŨNG VỪA CHỐNG THAM NHŨNG? Xin hỏi: tay phải tham nhũng, liệu tay trái có dám cầm dao chặt được tay phải hay không? Có bác sĩ ngoại khoa nào tài giỏi mổ cắt được ruột thừa viêm chính mình không ?
Linh hồn triết học duy vật biện chứng Marxism nằm ở câu kinh mà đảng viên cộng sản nào cũng phải thuộc làu làu: “Mọi sự vật đều được cấu thành bởi các mặt đối lập thống nhất”.
Chỉ trừ nền chính trị của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam không hề nằm trong quy luật vận động này của Marx, vì nó triệt tiêu đối lập chính trị! Nền chính trị độc đảng, độc quyền của nước ta hôm nay đang chống lại biện chứng pháp Marxism. Trong phép biện chứng do Hegel sáng tạo, Marx tiếp thu, có ba nhịp như sau: xuất đề, phản đề và tổng đề. Phản đề hay đối lập chính là linh hồn của biện chứng pháp Marxism. Chối bỏ đối lập, triệt để cấm phản đề, cấm đối lập chính trị, nền chính trị của nước ta ngày nay đang chống lại chính cái lý thuyết chủ nghĩa cộng sản mà nó thề nguyền đi theo, thành ra một nền chính trị thoái bộ, rất giống với các nền chính trị thần quyền thời Trung cổ bên châu Âu.
Hãy xem khẩu hiện rất duy tâm, hoàn toàn chống lại thuyết Marxism của Đảng cầm quyền: “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh MUÔN NĂM”. Marx từng giải thích tại sao loài người thống khổ: vì loài người còn phân chia giai cấp. Mục đích của Marx là làm cho nhân loại tiến đến đại đồng, tức tiến đến thiên đường cộng sản. Muốn đến thế giới cộng sản, phải xóa bỏ các giai cấp: xóa bỏ giai cấp tư sản, xóa bỏ giai cấp vô sản, xóa bỏ nhà nước, xóa bỏ công an, quân đội, tất nhiên phải xóa bỏ cả Đảng Cộng sản, vì Đảng Cộng sản là đảng của giai cấp vô sản. Mà khi xóa bỏ giai cấp, thì đảng của giai cấp cũng không còn. Hô “Đảng Cộng sản Việt Nam MUÔN NĂM” cầm bằng như hô: “Xã hội loài người có giai cấp muôn năm” ! Rõ ràng hô như vậy là treo cổ chủ nghĩa Marx, là không chính danh, là tự xóa bỏ tính mục đích của Đảng Cộng sản.
SỰ THẬT THỨ BA: NÓI MỘT ĐÀNG, LÀM MỘT NẺO, HAY LÀ DANH KHÔNG CHÍNH THÌ NGÔN KHÔNG THUẬN
Đảng, Nhà nước Việt Nam nói thì rất hay, nhưng làm thường ngược lại. Những nguyên tắc, nguyên lý, luật pháp, chính sách, đường lối của Đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam hiện nay hầu hết đều không chính danh.
Xin chứng minh
Trong Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam người dân được hưởng tất cả các quyền: quyền sống, quyền làm người, quyền hoạt động chính trị, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, lập đảng phái, quyền biểu tình, tự do tôn giáo, tự do cư trú, tự do đi lại, tự do đủ thứ…Nhưng: Chính sách hộ khẩu đã cấm tự do cư trú.
Quyền được biểu tình của dân bị cấm chỉ bởi một nghị định (do Thủ tướng Phan Văn Khải ký): cấm từ năm người trở lên tụ tập hay đi hàng dọc ngoài đường, ngoài phố. Anh bạn chúng tôi có 5 đứa con, cộng hai vợ chồng là 7 người, mỗi sáng Chủ nhật anh chị dẫn bầy con đi tập thể dục tại công viên cách nhà hơn cây số . Đoàn rồng rắn tí hon của anh chị không thể đi thành một hàng, mà phải bí mật xé lẻ thành hai tốp, anh dẫn 3 đứa con, chị dẫn 2 đứa con giả vờ không quen biết nhau, đi vào hai lề đường khác nhau, sợ đi chung sẽ bị công an bắt… Anh bạn này tâm sự: ra Quốc lộ số 1, qua một số đường phố ở các thành phố nhỏ, thấy trâu bò được ung dung đi thành bầy đàn hàng mấy chục con trên đường mà không bị công an bắt? Sao kiếp người ở Việt Nam lại tủi hổ hơn kiếp bò: con bò còn được tự do tụ tập, tự do nghênh ngang rồng rắn trên đường, được Đảng và nhà nước đối xử tử tế hơn hẳn con người… là sao hở các ông trời con?
Tự do tôn giáo bị cái rọ tôn giáo quốc doanh cấm cản. Hàng trăm sư sãi, chùa chiền vốn theo một hệ phái Phật giáo riêng từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam đã bị cấm hoạt động, bắt phải vào Phật giáo quốc doanh, nếu không chịu quốc doanh hóa Phật giáo sẽ bị bắt.
Công giáo cũng phải thành Công giáo quốc doanh. Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành… cũng phải vào quốc doanh thì sao gọi là tự do tôn giáo? Ở một đất nước không có TÔN GIÁO TƯ NHÂN, chỉ có TÔN GIÁO QUỐC DOANH mà cứ xưng xưng toe toét: Việt Nam có tự do tôn giáo.
Điều 4 trong Hiến pháp cho phép chỉ một mình Đảng Cộng sản được nắm quyền lãnh đạo mãi mãi, đã cấm mọi công dân tự do hoạt động chính trị, trong khi quyền người dân được tự do hoạt động chính trị ghi rõ ràng trong Hiến pháp. Điều 4 của Hiến pháp là điều không chính danh.
Đảng và Nhà nước có trên 700 tờ báo giấy báo viết báo hình. Xã hội tự xưng là “nhân dân làm chủ: của dân, do dân, vì dân”, “cán bộ là đày tớ nhân dân”. Tai ngược thay, chính anh đầy tớ này được độc quyền ra báo, lại cấm ông chủ ra báo là sao? Marx – sinh thời từng ca ngợi nền tự do báo chí của chủ nghĩa tư bản. Marx lên án cay độc nhà vua Phổ kiểm duyệt báo chí theo kiểu nhà nước Việt Nam hôm nay lùa tất cả nền báo chí nước nhà vào cái rọ lề phải, đánh sập hơn ba trăm blog và website cá nhân trên Internet như lời khoe khoang của ông tổng cục phó Tổng cục An ninh Bộ Công an, trung tướng Vũ Hải Triều… Không có nền tự do báo chí tư sản, nền xuất bản tự do tư sản, không thể xuất hiện chủ nghĩa Marx. Nếu Karl Marx tái sinh xuất hiện giữa lòng Hà Nội hay Sài Gòn hôm nay, chắc chắn cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản sẽ bị lính của ông Vũ Hải Triều bắt ngay tắp lự.
Khi người dân không có quyền ra báo tư, lập nhà xuất bản tư… cũng có nghĩa người dân Việt Nam hiện nay không có quyền tự do ngôn luận.
Khi Hiến pháp đã cho công dân cái quyền thì người dân không phải đi xin. Hiến pháp bảo công dân có quyền sống, quyền làm người, vậy chả lẽ khi sống là phải thở, phải ăn, phải mặc, phải yêu vợ… thì cứ mỗi lần thở, mỗi lần ăn, mỗi lần mặc, mỗi lần yêu vợ… lại phải làm đơn xin phép công an à?
Hiến pháp của các nước dân chủ văn minh sinh ra để bảo vệ người dân, đảm bảo nhân quyền, dân quyền và mọi quyền tự do của dân, cốt yếu để ràng buộc kẻ cầm quyền. Hiến pháp nước ta hiện nay sinh ra hầu như để chỉ trói buộc người dân và tạo hàng nghìn kẽ hở cỡ lỗ thủng con voi chui lọt cho kẻ cầm quyền tự do đánh tráo Hiến pháp, tự tung tự tác, làm ngược lại Hiến pháp mà không bị luật pháp ràng buộc là sao?
Quốc hiệu nước ta hiện nay xưng là: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực ra có đúng không? Thưa không! Vì nền kinh tế nước ta từ năm 1986 đến nay là nền kinh tế thị trường, tức nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, một chủ nghĩa tư bản hoang dã. Vậy quốc hiệu nước ta muốn sát với “sự thật của đất nước” như gợi ý của Ban Tuyên giáo, phải đặt lại là: “Cộng hòa Tư bản Chủ nghĩa Việt Nam” mới chính danh.
Chủ nghĩa xã hội nói cho cùng là một mô hình ảo, hoàn toàn không có thật. Hồi chúng tôi theo học tại Học viện Gorky bên Liên Xô năm 1988, thường nghe dân Liên Xô định nghĩa về chủ nghĩa xã hội theo mô hình Lenin-Stalin như sau: “Chủ nghĩa xã hội là con đường vòng vèo nhất, đầy máu và nước mắt nhất, khốn nạn nhất để đi lên tư bản chủ nghĩa”. Liên Xô, với mô hình xã hội chủ nghĩa trại lính (hay trại tập trung) đã phải mất 74 năm đi vòng vèo trong máu xương, ngục tù, trong đày đọa của những quần đảo Gulag hắc ám, man rợ… để năm 1991 mới tới được nền kinh tế tự do tư bản chủ nghĩa. Quốc hiệu của nước ta như vậy là không chính danh.
Cái đuôi “Định hướng xã hội chủ nghĩa” được gắn vào đít khái niệm kinh tế thị trường của nhà nước ta hiện nay là một cái đuôi giả, một cái đuôi nhựa chạy bằng cục pin sắp thối của Trung Quốc. Theo nghĩa từ điển: “định hướng” có nghĩa là xác định phương hướng, mà điểm tới đã được xác định cụ thể. Ví dụ ông A hẹn ông B qua điện thoại, rằng mai ta gặp nhau ở Hồ Con Rùa, tập kết tại đó ăn sáng, uống café, định hướng Buôn Ma Thuột mà tới Plây-ku nhé! “Xã hội chủ nghĩa” là khái niệm ảo trên giấy, chưa có thật trên đời và sẽ không thể có thật vì nó dựa trên những nguyên lý ảo tưởng, bịa đặt, phi khoa học.
Đưa đất nước đi vào chỗ không có thật, định hướng tới cõi không có thật mà đến thì than ôi, thà giết đất nước đi còn hơn! Nên khẩu hiệu “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội” in trên đầu tờ Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, nếu theo tiêu chí “hướng về sự thật” của Ban Tuyên giáo chỉ dẫn, phải đặt tên lại cho đúng với thực chất ngữ nghĩa của từ điển là: “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa không có thật” mới đúng. Không có sự thật đi kèm, mọi lý thuyết, mọi mô hình xã hội, mọi lời hứa đều là sai trái, ảo tưởng, hứa hão, đúng như K. Marx đã nói.
Đồng nghĩa Đảng Cộng sản là đất nước, đồng nghĩa chủ nghĩa xã hội là Tổ quốc là không chính danh. Đảng Cộng sản mới chỉ có 5 triệu đảng viên, còn nhân dân Việt Nam ngoài Đảng chiếm đa số tới hơn 80 triệu dân, có phù phép kiểu gì, Đảng Cộng sản cũng không thể biến thành đất nước Việt Nam được. Đảng nghĩa là phe phái, là một nhóm người. Một nhóm người sao có thể biến thành tất cả được, nên danh từ ĐẢNG TA dùng để gọi Đảng Cộng sản là không chính danh. Liên Xô đã bỏ ra 74 năm để tìm mà không thấy chủ nghĩa xã hội đâu, chỉ thấy trại tập trung, thấy nhà tù nhiều hơn trường học. Lenin, Stalin, Mao… đã biến nhân dân các nước Nga, Tàu, Cuba, Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Campuchia, hàng chục nước Đông Âu… thành hàng tỉ con chuột bạch cho cuộc thí nghiệm máu cộng sản chủ nghĩa bằng bạo lực, bằng cải tạo áp đặt, bằng thuyết đấu tranh giai cấp tàn bạo nhưng đã thất bại hoàn toàn. Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, Đông Âu giờ đã đi theo tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội là một khái niệm ảo, nên khẩu hiện “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” là rất buồn cười, giống như nói “Yêu nước là yêu cái không có thật” vậy…
Quốc hội nước CHXHCN VN được Đảng Cộng sản và nhà nước phong cho là cơ quan lập pháp cao nhất của nhân dân Việt Nam là không chính danh. Vì thực tế, Quốc hội này chỉ là cơ quan ngoại vi của Đảng, do Đảng lãnh đạo; Quốc hội mà 98% dân biểu là đảng viên của một đảng duy nhất thì việc gọi Quốc hội này của dân là một trò hề, là không chính danh; Quốc hội này của Đảng, dân nào có quyền bính gì trong Quốc hội giả hiệu này?
Việc một nhóm người không ai khiến, tự nhiên nhảy phóc ra đấu trường xã hội ngót trăm năm nay, hung hãn cầm mác cầm lê cầm búa cầm liềm cấm cản những nhóm người khác lập phe đảng là không chính danh, không logic, không công bằng, không có luật hay chỉ là luật rừng?
Đảng Cộng sản Việt Nam không do nhân dân Việt Nam bầu ra, nên sự tồn tại của Đảng để tuyệt đối cầm quyền là không chính danh. Đúng như Mao nói rằng chế độ chuyên chính vô sản của ông ta là do súng đẻ ra: “Súng đẻ ra chính quyền”, tức là SÚNG BẦU RA CHÍNH QUYỀN… Mấy chục năm nay, người ta đã cố tình gọi nhầm SÚNG là DÂN: “súng bầu lên chính quyền thì lại nói dối là dân bầu”… Cũng giống như (giả dụ thôi, hi vọng đừng biến thành sự thật!) sau bài viết này, công an gọi tên Trần Mạnh Hảo lên… dọa bắn; Hảo ta vốn là một con cáy 64 tuổi biết cầm bút, thấy súng há mồm sắp đối thoại với mình, sợ vãi đái, nghĩ mình miệng hùm gan sứa, sức đâu cãi lại miệng súng, đành phải ký vào giấy cung khai rằng: báo cáo các anh, em đã nói sai, đã nói dối, vì Đảng ta và nhà nước ta từ xưa tới nay thật thà hơn đếm, có biết nói dối là gì đâu. Thế rồi báo An ninh hôm sau hí hửng: trước lý lẽ sắc bén và thực tế sáng ngời chính nghĩa của nhân dân, tên Hảo đã không đủ lý lẽ đối thoại, đã ăn năn hối lỗi vì dám vu cáo cho Đảng ta nói dối…
Việc Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời năm 1930 theo thuyết Marxism là không chính danh.
Marx bảo: chủ nghĩa tư bản xuất hiện với đại công nghiệp. Marx lại bảo phương thức kinh tế châu Á không nằm trong chủ nghĩa Marx. Marx phán: giai cấp vô sản là hệ quả của giai cấp tư bản. Nghĩa là tư bản đẻ ra vô sản. Trung Hoa, Việt Nam và cả châu Á, thế giới Ảrập, Ấn Độ, Mỹ Latinh, Phi Châu… trong thế kỷ thứ 19, đầu thế kỷ thứ 20 chưa hề có chủ nghĩa tư bản. Năm 1930, Việt Nam chưa có ông bố tư bản, sao lại có đứa con tên là vô sản ra đời? Bịa ra một giai cấp vô sản ảo để thành lập ra đảng của giai cấp vô sản là Đảng Cộng sản Đông Dương là không chính danh, là trái với thuyết Marxism, là xây nhà trước, xây nền nhà sau.
Sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Đông Dương nêu khẩu hiệu “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc trốc tận rễ” là không chính danh. Diệt trí thức là diệt đi hai ông đại trí thức Marx-Engels ư?
Trí thức là linh hồn của xã hội, diệt trí thức cũng có nghĩa là diệt luôn xã hội loài người. Năm 1958 – 1960 Bắc Việt Nam (năm 1975 là cả nước) tuyên bố tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội với “mo cơm và quả cà”, không thông qua con đường tư bản chủ nghĩa theo sự xúi dại của Lenin là không chính danh. Theo Marx, linh hồn của xã hội chủ nghĩa là đại công nghiệp; chỉ có nền nông nghiệp lạc hậu mà dám thí mạng cùi tiến lên xã hội chủ nghĩa là tiến lên toàn dân cùng chết đói, hay tiến lên công xã kiểu diệt chủng như Khmer Đỏ, tiến lên “đại nhảy vọt” kiểu Mao khiến mấy chục triệu người chết đói, dân chúng phải ăn thịt cả con mình như cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội do Thông tấn xã Việt Nam vừa phát hành đã kể.
Năm 1986, theo gương Trung Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam thay vì chôn chủ nghĩa tư bản (như Marx-Engels dạy) đã quay ngược lại chôn chính học thuyết cộng sản, bằng cách xây dựng nền kinh tế tự do đa thành phần tư bản chủ nghĩa, đưa nhân dân Việt Nam thoát khỏi chết đói. Theo Marx dạy: kinh tế nào, chính trị ấy: hạ tầng cơ sở kinh tế quyết định thượng tầng kiến trúc chính trị. Nay, kinh tế Việt Nam là tư bản tự do mà chính trị vẫn giữ nền chính trị độc tài xã hội chủ nghĩa là sai quy luật, là không chính danh, là đầu chuột đuôi voi, là ông nói gà bà nói thóc lép, là hồn Trương Ba, da hàng thịt…
Marx–Engels từng công khai tuyên bố trong trước tác của mình: “Chúng tôi không có ý định đoán định tương lai một cách giáo điều mà mong muốn dùng phương pháp phê phán thế giới cũ để tìm được một thế giới mới… Việc kiến tạo và tuyên bố một lần và mãi mãi những giải đáp cho các vấn đề của mai sau không phải là việc của chúng tôi…”. Rõ ràng, chính Marx và Engels đã coi học thuyết của mình chỉ là những giả thuyết, những phép thử, những phỏng định về tương lai, tuyệt nhiên không giáo điều cho lý thuyết của mình là chân lý vĩnh hằng. Những ai đã, đang coi học thuyết Marx là chân lý bất biến là đang chống Marx, là muốn dùng Marx giả, Marx dỏm bịt mắt trí thức và nhân dân để quyết câu giờ giữ quyền lực là không chính danh.
Theo định đề: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” của Marx, chúng ta thấy thực tế đã không chấp nhận cuộc thí nghiệm XÓA TƯ HỮU hãi hùng nhất trong lịch sử loài người của Marx- Engels-Lenin với tham vọng “XÓA TƯ HỮU, XÓA CÁ NHÂN, XÓA NHÀ NƯỚC, XÓA MÂU THUẪN, XÓA ĐẢNG CỘNG SẢN, XÓA CÁC GIAI CẤP VÀ ĐẢNG CỦA NÓ, XÓA CHÍNH BIỆN CHỨNG PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG MỘT XÃ HỘI CỘNG SẢN ÁO TƯỞNG PHI BIỆN CHỨNG – NƠI KHÔNG CÓ CÁI DỐI TRÁ, KHÔNG CÓ CÁI ÁC ĐỘC VÀ CÁI XẤU XA, NƠI TUYỆT ĐỐI TỰ GIÁC, TUYỆT ĐỐI TỰ DO, TUYỆT ĐỐI GIÀU CÓ, TUYỆT ĐỐI KHÔNG CÓ NGOẠI TÌNH, KHÔNG CÕN HÔN NHÂN, KHÔNG CÕN GIA ĐÌNH KIỂU CŨ, KHÔNG CÕN NGÂN HÀNG, KHÔNG CÕN TIỀN TỆ…”. Đó là một xã hội bịa đặt không có thật: vì không có cái ác thì cái thiện cũng bị triệt tiêu, không có cái ngụy thì cái chân cũng biến mất, không có cái xấu thì cái đẹp cũng chẳng còn…
Một trăm sáu mươi hai năm từ khi “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” của Marx–Engels ra đời đến nay, hàng trăm triệu sinh mạng đã bị giết, hàng tỉ người bị tù đầy, bị ngược đãi để “các vị lãnh tụ kính yêu” làm cuộc thí nghiệm đẫm máu cải tạo thế giới từ TƯ HỮU sang CÔNG HỮU, từ TƯ BẢN sang VÔ SẢN, từ CÁ NHÂN sang TẬP THỂ, XÓA QUỐC GIA chỉ còn QUỐC TẾ, XÓA HOÀN TOÀN THẾ GIỚI CŨ, NHÂN LOẠI CŨ chỉ còn MỘT THẾ GIỚI MỚI TINH, NHÂN LOẠI MỚI TINH KHÔNG CÕN TRUYỀN THỐNG, KHÔNG CÕN LỊCH SỬ, KHÔNG CÕN QUÁ KHỨ, KHÔNG CÕN TÔN GIÁO… Chao ôi, khi một con người không còn quá khứ, một dân tộc không còn lịch sử, con người ấy, dân tộc ấy sẽ biến thành tinh tinh, xã hội tinh tinh hay thành những cục bột biết ca hát?… Rút cục, cuộc thí nghiệm cộng sản kinh hồn trên phạm vi toàn thế giới đã hoàn toàn thất bại. Những nước cộng sản cứng đầu nhất như Bắc Triều Tiên, Cuba hiện nay cũng đang rục rịch thí nghiệm mô hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, tập toẹ học lại những bước đi làm giàu vỡ lòng nhân loại đã có từ trước khi Marx ra đời. Đây là sự thật không thể nào chối cãi, dù cãi cối cãi chày bằng còng số tám hay nhà tù, họng súng v.v…
Cám ơn Marx, đã cho chúng tôi đề bài “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” để làm một bài tập làm văn về sự thật này. Cám ơn ngài cố Tổng thống nước Ba Lan tự do Lech Kaczyński đã cho chúng tôi ý tưởng rất hay: chỉ có sự thật mới giải phóng con người, làm chủ đề bài tham luận. Chúng tôi cũng xin cám ơn tiêu đề của cuộc hội thảo “Văn học nghệ thuật hướng về sự thật đất nước” của Ban Tuyên giáo Trung ương đã gợi ý, khích lệ chúng tôi dám liều mạng nói lên những sự thật cay đắng nhất, khủng khiếp nhất của đất nước chúng ta hiện nay, những sự thật chết người, ai ai cũng biết mà vì sợ tù tội nên không ai dám nói ra.
Viết đến đây, chúng tôi chợt nhớ đến truyện “Bộ long bào của vị hoàng đế” của văn hào Andersen. Thằng bé trong thiên truyện đã liều mạng xé toang bộ long bào hoang tưởng của vị hoàng đế kia bằng cách hét thật to: ông vua cởi truồng! Tiếng kêu thất thanh của chân lý ấy có làm đám đông đang bị quyền lực hôn mê, luôn miệng tung hô vị hoàng đế mặc bộ long bào đẹp nhất tỉnh ra hay không?
Nhưng hình như ngay sau khi gọi sự vật bằng tên của nó, thằng bé do sự thật, do tự do phái đến đã biến mất. Do đó, mới còn biết bao nhiêu ông vua triết học cởi truồng, vua chính trị cởi truồng, vua cách mạng cởi truồng, vua chủ nghĩa cởi truồng… đang đi nhông nhông ngoài xã hội, ngoài phố xá, đã và đang được những đám đông giả vờ cuồng tín hòng trục lợi xúm vào vạn tuế, ca ngợi các ngài khoác những bộ long bào tuyệt vời của trần gian…
Sự thật giản dị nhường ấy, sao bị cả đám đông lờ đi? Mới hay sự cám dỗ của dối trá có bùa ngải quỷ sứ, mê hoặc con người trong bóng tối, trong đe dọa, trong hấp lực của củ cà rốt treo trước miệng con lừa… Sự thật chỉ có thể tồn tại công khai dưới ánh sáng mặt trời. Xã hội của những hội kín vây bủa con người trong lừa mị, trong sợ hãi u u minh minh, luôn xua đuổi và cầm tù sự thật. Chối bỏ sự thật, những xã hội do băng đảng hội kín cầm quyền hầu như không bao giờ đi cùng đường với lẽ phải và công lý.
Chúng tôi không dám làm thằng bé trong thiên truyện kia của Andersen; làm vị thiên sứ của sự thật này, coi chừng khả năng biến mất là điều có thể xảy ra. Hãi quá! Chúng tôi chỉ xin kể ra ba vị nhà văn Việt Nam hình như cũng đang thử đóng vai trò của thằng bé ấy, vai trò thiên sứ của sự thật, của tự do.
Đây là lời của nhà văn Đỗ Chu bùi ngùi, chua xót, khi ông nói về sự lãnh đạo của Đảng với nhà văn; sao nhà văn giống chú cún con ve vẩy đuôi theo ông chủ trong sân nhà thế: “Tớ yêu Đảng như yêu vợ. Vợ còn sống thì tớ nghe vợ. Vợ chết thì tớ lập bàn thờ khấn vái cho đến chết. Đảng cũng là vợ của tớ. Đảng bẩn thì tớ mua xà phòng cho Đảng tắm. Mua nước hoa cho Đảng thơm. Đảng nói thì không được cãi. Đảng bảo ăn là ăn. Đảng bảo uống là uống. Đảng bảo nằm là nằm. Đảng bảo lên giường là lên gường. Đảng bảo ra đường là ra đường…” (Trích bài “Nhà văn Đỗ Chu yêu Đảng như yêu vợ” của Nguyễn Trọng Tạo ngày 13/7/2010). Về việc này, mới thấy Nguyễn Vĩ xưa thánh thật, khi ông viết: “nhà văn An Nam khổ như chó!”.
Đây là mấy câu thơ của nhà văn, nhà thơ Nguyễn Đình Chính (con trai cố nhà văn Nguyễn Đình Thi, người rất nhiều năm trước và sau 1975 từng làm Tổng Thư ký – ngày nay gọi là Chủ tịch – Hội Nhà văn Việt Nam): “Mấy thằng bạn văn nghệ chửi đổng hát hay / Cổ họng rắn hổ mang trơn tuột liếm mồi trong các HỘI ĐOÀN / hót hít chính trị như chó hít hóng cứt…” (Trích trong bài thơ “Đêm Sài Gòn” in trong tập thơ Chẹc chẹc của Nguyễn Đình Chính, do Tân Hình thức Publishing Club ấn hành trên mạng 2010).
Đây là nhà văn đại tá công an Mai Vũ, trước Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ XIII, đã lên tiếng đòi tự do sáng tác, mặc dù từ năm 1987, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã cởi trói cho các nhà văn: “Đây là vấn đề nhạy cảm mà không phải ai cũng có dũng khí dám nói thật. Nhằm thiết lập một trật tự xã hội tư duy đồng chiều, chúng ta đã chính trị hóa mọi đời sống xã hội. Điều đó thật tai hại, nó làm khô héo tinh thần dân tộc. Chính trị hóa khoa học đã dẫn đến phủ nhận chân lý khách quan, làm méo mó khoa học. Trong lịch sử Xô Viết trước kia, đã có thời người làm vườn Lưxenkô – Mitsurin được tôn vinh như những nhà cải cách vĩ đại, còn Mooc găng, Menđen là những kẻ phục vụ chủ nghĩa tư bản vì thuyết gen di truyền. Kết quả, nhà di truyền học thiên tài Vavilôp đã phải tự sát, còn nền di truyền học nước Nga thì lụn bại, để lại một vết nhơ đau đớn trong đời sống khoa học xã hội Xô Viết. Đó là vụ ngụy khoa học lớn nhất trong lịch sử nhân loại.
Chính trị hóa giáo dục cũng chỉ đẻ ra những chiến binh đánh bom tự sát, chứ không đẻ ra những công dân xây dựng tương lai.
Hội Nhà văn không phải là dàn hợp xướng để hát theo cái gậy chỉ huy của người nhạc trưởng. Nó là lãnh địa của những tư duy và sáng tạo cá nhân, nó là một tổ chức xã hội nghề nghiệp tự nguyện của các nhà văn lấy sứ mạng phục vụ Tổ quốc và nhân dân trên hết.
Nhà văn viết theo mệnh lệnh của trái tim, mà trái tim nhà văn thuộc về Tổ quốc và nhân dân. Anh ta là tội đồ và đáng nguyền rủa nếu thóa mạ Tổ quốc và dân tộc. Còn khuynh hướng chính trị tùy thuộc quyền lựa chọn của mỗi nhà văn. Hãy để con ngựa Văn tung vó trên cánh đồng bát ngát của tự do” (“Về Hội nhà văn của chúng ta” của Mai Vũ, in trên website Trần Nhương ngày 11-7-2010) Tiếp nối ba nhà văn trên, chúng tôi xin mời quý vị đọc lại bài thơ “Bài ca sự thật” của chúng tôi (Trần Mạnh Hảo) đã in trên báo Tuổi trẻ số tất niên ngày 24- 01-1987
BÀI CA SỰ THẬT
Sự thật của tôi
Sự thật của anh
Sự thật của chúng ta
Sự thật của mọi người?
Nhân loại có bao thời
Sự dối trá làm quan toà phán xử
Bru-nô ơi trái đất vẫn tròn
Mà chân lý nghìn sau còn trả giá
Nhưng đất nước vẫn đi tìm sự thật
Trong câu hát có mồ hôi nước mắt
Có con nghê đá đầu đình cười cợt các triều vua
Có thằng Bờm chẳng tin lời hứa hão
Cái quạt mo không để phú ông lừa
Vua Hùng ơi Người đi tìm sự thật
Bằng cách ngày đầu năm xuống ruộng cày bừa
Bao triều đại xưa đổ vì ưa nói dối
“Muốn nói gian làm quan mà nói”
Sự thật giấu trong nhà dân đen
Sự thật từng vật vờ đi như ăn mày đầu đường xó chợ
Sự thật làm anh hề, chú mõ
Sự thật như nàng Thị Kính oan khiên
Sự thật trốn vào ngụ ngôn, ngạn ngữ sấm truyền
Sự thật có khi mượn Xuý Vân mà giả dại
Sự thật chiếc lá đa bay qua bao thời đại
Bay về đây trời nổi can qua
Con vua thất thế quét chùa sãi ơi!
Vĩnh biệt chú Cuội
Vĩnh biệt thành tích ma, báo cáo láo thành thần
Bệnh hình thức gọi sai tên sự vật
Người đói phải nói lời no
Vị đắng sao lại kêu là mật?
Ngục tù mang nhãn hiệu tự do!
Vĩnh biệt khái niệm quét vôi và từ ngữ nước sơn
Đạo đức dính trên đầu môi chót lưỡi
Vĩnh biệt những bóng ma cơ hội
Những cái đầu già cỗi tự bên trong
Những con mắt nhìn người bằng bóng tối
Có nhận ra tia nắng mới trong lòng ?
Tôi là người tập yêu sự thật
Tập nghe nên có lúc ù tai
Tập nhìn nên chói mắt
Đất nước đổi thay
Cơn đau đẻ những dòng sông quằn quại!
Hạt thóc và hạt máu có bao giờ nói dối?
Bốn nghìn năm dân tộc tôi
Đi từ bờ bên kia
Đến bờ bên này của sự thật
Để mỗi con người hôm nay trên mặt đất
Được cầm trong tay một tia nắng mặt trời…
Sài Gòn ngày 15-1-1987
Trần Mạnh Hảo
_____________
Để kết thúc bản tham luận, xin kính mời quý vị cùng chúng tôi hô 3 khẩu hiệu sau:
Khẩu hiệu một:
KHÔNG CÓ SỰ THẬT, KHÔNG CÓ LẼ PHẢI VÀ CHÂN LÝ
(xin hô ba lần: không có, không có, không có)
Khẩu hiệu hai:
CHỈ CÓ SỰ THẬT MỚI GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
(xin hô ba lần: chỉ có, chỉ có, chỉ có)
Khẩu hiệu thứ ba:
SỰ THẬT LÀ TIÊU CHUẨN CỦA CHÂN LÝ
(xin hô ba lần: tiêu chuẩn, tiêu chuẩn, tiêu chuẩn)
Xin cám ơn quý vị.
Trịnh Hội kễ chuyện đời xưa.
Ngày Xửa, Ngày Xưa
Cũng như nhiều người khác có dịp đi làm ở ngoại quốc, thời
gian tôi ở Hà Nội cũng là thời gian mà tôi có nhiều bạn bè ngoại quốc
đến thăm. Phần vì Việt Nam lúc ấy vừa mới mở cửa nên ai cũng hiếu kỳ
muốn ghé qua cho biết. Phần vì tôi thuộc loại người đi đâu cũng có bạn
nên tuy ở Hà Nội chưa đến 6 tháng nhưng tôi đã có gần mười đứa bạn ghé
thăm, luôn tiện xin ở nhờ để khỏi tốn tiền khách sạn
Thôi thì đủ mọi thành phần, trai gái từ khắp bốn bể đổ về.
Khi thì bạn bè luật sư của tôi ở Úc bay qua thăm viếng. Có lúc tôi lại
phải đón tiếp những thằng bạn ở xa tít bên Anh vừa…đạp xe đạp vòng
quanh thế giới tới Hà Nội để ghé nhà chơi. Tôi còn nhớ chỉ cần nghe tên
những quốc gia mà nó vừa đạp xe qua thôi cũng thấy đủ ớn chứ đừng nói
gì phải còng lưng đạp xe xa đến từng ấy.
Người cuối cùng đến thăm tôi trong khoảng thời gian đó là
bà Barbara gốc người Canada da trắng lúc đó đang định cư ở Hồng Kông.
Tôi gọi “bà” vì Barbara chỉ hơn tôi gần… 50 tuổi đời. Tóc bạc phơ nhưng
tinh thần lẫn thể xác của bà lúc ấy vẫn còn rất mạnh khỏe. Tôi quen bà
trong một dịp chúng tôi cùng vào trại cấm High Island ở Hồng Kông để
dắt các em bé tỵ nạn Việt Nam ra ngoài chơi lúc tôi còn làm việc thiện
nguyện ở bên ấy.
Sau này một số em và gia đình bị cưỡng bức hồi hương về
Việt Nam nên nhân dịp tôi làm việc ở Hà Nội, bà sẳn một công hai chuyện
vừa bay sang thăm tôi, vừa có dịp gặp lại một số em nay đã về ở Kiến
Sơn, Kiến Thụy gần Đồ Sơn, Hải Phòng.
Thế là vào một ngày đẹp trời cuối tuần, sau một đêm nghỉ
lại nhà tôi ở Hà Nội, bà Barbara và tôi đã cùng nhau bắt xe lửa đến Hải
Phòng để gặp lại các em sau gần 4 năm mất liên lạc.
Gặp lại nhau ngay tại ga xe vì tôi có điện thoại báo trước,
thấy các em chỉ có 3, 4 năm sau mà đã cao lớn hơn nhiều bà Barbara rất
vui và bảo phải chi bà đến sớm hơn để có dịp chia sẻ với các em lúc gia
đình vừa mới trở về và còn gặp nhiều bỡ ngỡ trong cuộc sống.
Nhưng mà thôi, như thế này là đã tốt lắm rồi, tôi tiếp lời
bà.
Liền sau đó đám nhỏ và một số anh chị tôi cũng từng quen
biết trong trại cùng tôi và bà Barbara dắt nhau về quê của họ ở Kiến
Sơn cách thành phố Hải Phòng khoảng trên một giờ đi xe. Và cũng như bao
cuộc họp mặt khác giữa những người bạn lâu năm không có dịp gặp nhau,
chúng tôi đã cùng nhau ôn lại những kỷ niệm ngay tại nhà của họ.
Từ những ngày chúng tôi quen nhau trong trại cấm cho đến
những thay đổi lớn lao trong cuộc sống của họ từ khi bị cưỡng bức hồi
hương về Việt Nam.
Nhưng vui như thế chúng tôi cũng không quên là ở Việt Nam
bất kỳ ai muốn nghỉ lại qua đêm ở nhà người quen cũng phải lên phường
khai báo đầy đủ. Và thể theo qui định, chúng tôi đã làm y như thế.
Sáng đến sáng hôm sau nhóm chúng tôi khoảng hai, ba mươi
người tụ họp ở nhà một người bạn vẫn còn mải mê dông dài nhắc lại
chuyện xưa mãi cho đến khi có hai anh công an phường bước vào, lúc đó
chúng tôi mới tạm ngừng nói chuyện để mời họ vào nhà uống nước.
Họ bảo họ đến để tìm hiểu xem tôi và bà Barbara đã quen với
những người tỵ nạn trong trường hợp nào và làm thế nào chúng tôi biết
để liên lạc xuống thăm những người này.
Tình thật, tôi trả lời tôi và bà Barbara đã quen họ nhân
lúc chúng tôi làm việc thiện nguyện trong các trại cấm và từ khi tôi về
Việt Nam đi làm thì tôi đã chủ động liên lạc lại.
“À, thì ra là thế”, một anh công an vừa gật đầu vừa trả lời
tỏ ý anh hiểu.
“Thế nhưng ai cho phép anh vào các trại cấm để làm việc”,
anh kia hỏi tiếp.
“Dạ, không có ai cho phép ạ. Em làm việc thiện nguyện cho
một tổ chức phi chính phủ và vì vậy em được tự động vào trại cấm dắt
các em ra ngoài chơi”, tôi thành thật trả lời.
“Không cần ai cho phép anh vào à? Thế thì ai cho phép anh
sang Hồng Kông làm việc?” cũng cùng anh công an đó tiếp tục chất vấn.
“Dạ, cũng không có ai cho phép ạ. Em nghỉ hè tự động mua vé
máy bay sang Hồng Kông làm việc, không phải xin ai ạ”. Vừa trả lời tôi
vừa nghĩ thầm trong bụng chả lẽ họ đang muốn làm tiền?
“Anh trả lời như thế mà anh nghĩ chúng tôi tin anh à? Đây
xem ra là có vấn đề đấy. Xin mời anh về phường để chúng tôi có thể làm
rõ hơn”.
Đến lúc này thì cả hai anh cùng đứng dậy mời tôi và bà
Barbara về văn phòng làm việc.
Nói thật đến lúc ấy tôi vẫn nghĩ chắc không có chuyện gì
đâu. Họ hỏi điều gì mình trả lời thành thật điều đó thì sẽ xong thôi.
Chỉ là họ không hiểu cách thức làm việc ở ngoại quốc, đi đâu không ai
cần xin phép, thế thôi, tôi đã tự an ủi mình như vậy.
Nhưng không. Tôi đã lầm. Lầm to là khác. Sau hơn một giờ
làm việc ở phường hình như họ vẫn không tin những gì tôi khai là sự
thật. Đó là tôi đã không làm việc cho bất cứ tổ chức “phản động” nào
hoặc nhận tiền của ai để sang Hồng Kông làm việc thiện nguyện. Tôi cũng
chẳng có bất kỳ sự liên hệ mật thiết nào ngoài tình đồng hương thương
mến, cảm thông nhau lúc những người Việt tỵ nạn còn bị giam trong các
trại cấm ở Hồng Kông.
Chẳng ăn thua. Tôi trả lời đến đâu cũng nghe câu hỏi được
lập lại: Anh nói thế mà anh nghĩ chúng tôi tin anh à?
Từ công an phường tôi được giải lên công an Huyện Kiến
Thụy. Nhưng sau hơn 4 tiếng đồng hồ cùng với 3 anh công an huyện làm
việc cật lực, câu nói cuối cùng tôi nghe vẫn là “đây là có vấn đề”, mặc
dù tôi cứ thắc mắc: “Ý anh nói ‘vấn đề’ là vấn đề gì vậy anh?”.
Đôi khi nghĩ lại tôi thấy lúc đó mình ngây thơ thật. Ngây
thơ đến độ chính mình đang gặp rắc rối mà cũng không biết đó là rắc rối!
Vì sau gần 6 tiếng bị quần, tôi và bà Barbara đã được
chuyển từ huyện lên tỉnh. Bằng một chiếc xe thùng trực chỉ đồn công an
thành phố Hải Phòng.
Lúc ấy, chúng tôi đã không được cho biết mình sẽ đi đến đâu
hay đã phạm tội gì mà lại bị giữ lâu đến thế. Lẽ ra tối hôm đó chúng
tôi phải bắt chuyến xe lửa cuối cùng về lại Hà Nội để hôm sau tôi đi
làm. Nhưng lại một lần nữa, người tính không bằng trời tính, tối hôm đó
chúng tôi đã được sắp xếp cho ở lại ngay tại nhà nghỉ của…Bộ Công An
sau khi toàn bộ giấy tờ bị tịch thu và được thông báo phải…trả sòng
phẳng tiền ở trọ (hình như là khoảng 20 đô cho mỗi đêm!).
Thế mới gọi là đáng nhớ phải không bạn? Trên đời này đố bạn
tìm được ai vừa bị bắt một cách vô lý, đã vậy còn phải tự mình trả tiền
phòng giam giữ cho chính mình!
Như bà Barbara đêm hôm ấy trước khi ngủ bảo tôi: it only
happens in Haiphong. Đúng là chuyện chỉ có thể xảy ra ở Hải Phòng.
Nhưng lúc ấy cả hai chúng tôi vẫn nghĩ chắc chắn ngày mai sẽ xong
chuyện vì những gì mình biết mình đã khai báo thành thật hết rồi.
Nhưng không. Lại một lần nữa chúng tôi đã lầm. Và cũng lại
là lầm to. Vì chúng tôi không những bị giam và hỏi cung cả ngày kế
tiếp, tiếp nữa, và tiếp nữa…cho đến ngày thứ năm mới được thông báo là
quá trình điều tra đã hoàn tất mà ngay sau đó chúng tôi đã được thông
báo là chúng tôi phải rời khỏi Việt Nam trong vòng 48 tiếng đồng hồ và
mỗi người bị phạt 15 triệu đồng vì – hãy lắng nghe cho kỹ - chúng tôi
đã phạm tội…“gặp gỡ người hồi hương không xin phép”!
Trời. Có thiệt không đây trời? Sau 5 ngày làm việc và trả
lời thành thật tất cả những gì chúng tôi bị hỏi, từ chuyện công cho đến
chuyện tư, từ lý lịch cá nhân cho đến tên và ngày sinh tháng đẻ của ông
bà, cha mẹ, anh em, cô dì chú bác lẫn bạn bè … họ vẫn không thấy là họ
đã bắt lầm người à? Thế là thế nào?
Tôi nhớ lúc ấy tuy vẫn còn ngây thơ nhưng tôi hăng cãi lắm
(cũng có lẽ vì tôi ngây thơ nên mới thích cãi!). Vì vậy sau khi nghe
được quyết định chính thức từ một anh công an tên Minh làm việc cho Cục
quản lý xuất nhập cảnh đọc xong và hỏi tôi có thắc mắc gì không, tôi đã
ngay lập tức có thắc mắc:
“Thưa anh, trong giấy quyết định này anh ghi tội của em là
‘Gặp gỡ người hồi hương không xin phép’ nhưng mà thưa anh trong cả năm
vừa qua ở Hà Nội, em đã gặp rất nhiều bạn là người tỵ nạn hồi hương
nhưng đâu thấy có vấn đề gì?”
“Ở Hà Nội khác, ở đây khác!” Minh trả lời cụt ngủn.
“Nhưng thưa anh trong giấy quyết định này sau khi ghi là em
đã ‘gặp gỡ người hồi hương không xin phép’ sau đó lại mở ngoặc ghi thêm
là ‘trực tiếp liên lạc, tổ chức gặp gỡ người hồi hương không xin phép’
thì không đúng như vậy vì tuy là em có trực tiếp liên lạc nhưng tổ chức
thì hoàn toàn không”, tôi cố giải thích.
“Thế thì làm cách nào anh hẹn gặp được những người này?”
Minh hỏi ngược lại tôi.
“Dạ thì như đã khai em liên lạc bằng điện thoại trước để
hẹn nhau gặp ở ga Hải Phòng”. Tôi thành thật trả lời.
“Thì đấy. Đấy là tổ chức đấy!”. Minh bình thản giải thích.
Oh! Thì ra là vậy. Tuy tai tôi nghe nhưng tôi đã không thể
nào tin nổi những gì tôi vừa được cho biết.
Trông có vẻ sốt ruột vì quá trình điều tra đã hoàn tất,
Minh gặng hỏi tôi lần cuối: Thế anh còn gì thắc mắc nữa không?
Vừa buồn, vừa tức, vừa giận, lúc ấy có lẽ tôi nên can tâm
chấp nhận sự thật phủ phàng là mình sẽ bị trục xuất ra khỏi quê hương
của mình. Nhưng không, cái máu luật sư trong người nó lại tiếp tục nổi
lên muốn tìm ra cho được lẽ phải. Tôi hỏi tiếp và chẳng cần xưng
“anh”’, “em” gì nữa:
“Trong quyết định ghi là tôi đã vi phạm hành chính nhưng
anh có thể cho tôi biết điều khoản của nghị định nào hay thông tư nào
ghi rõ gặp gỡ người hồi hương là vi phạm hành chính không?” Lúc ấy tôi
biết chắc là chẳng có điều khoản nào nhắc đến vấn đề này vì chính tôi
đã đọc qua đọc lại rất nhiều lần những quy định liên quan đến người
nước ngoài qua công việc làm mỗi ngày.
Nhưng một lần nữa tôi lại bị hụt hẫng khi nghe câu trả lời
cộc lốc của Minh nay đã gằn xuống: “Nếu anh không còn thắc mắc gì khác
thì chúng ta ngưng tại đây. Anh không có quyền chất vấn tôi về những gì
đã quyết định”.
Ah! Thì ra là thế.
Đến lúc đó tôi mới hiểu.
Là đối với công an, hỏi vậy nhưng không hẳn là vậy. Ở Việt
Nam thấy vậy mà không hẳn là vậy. Nhiều khi nó còn tệ hơn vậy.
Đừng mơ tưởng nếu mình vô tội thì sẽ được xử vô tội. Vì rất
có thể không những mình bị xử có tội mà chính mình còn phải trả tiền
công giam giữ cho…chính mình!
Vậy mới có chuyện để nói. Về ngày xửa ngày xưa. Cho đến hôm
nay vẫn thế.
Không biết các bạn có muốn nghe tiếp chuyện tôi mới bị trục
xuất không nhỉ?
Trinh Hội
Cũng như nhiều người khác có dịp đi làm ở ngoại quốc, thời
gian tôi ở Hà Nội cũng là thời gian mà tôi có nhiều bạn bè ngoại quốc
đến thăm. Phần vì Việt Nam lúc ấy vừa mới mở cửa nên ai cũng hiếu kỳ
muốn ghé qua cho biết. Phần vì tôi thuộc loại người đi đâu cũng có bạn
nên tuy ở Hà Nội chưa đến 6 tháng nhưng tôi đã có gần mười đứa bạn ghé
thăm, luôn tiện xin ở nhờ để khỏi tốn tiền khách sạn
Thôi thì đủ mọi thành phần, trai gái từ khắp bốn bể đổ về.
Khi thì bạn bè luật sư của tôi ở Úc bay qua thăm viếng. Có lúc tôi lại
phải đón tiếp những thằng bạn ở xa tít bên Anh vừa…đạp xe đạp vòng
quanh thế giới tới Hà Nội để ghé nhà chơi. Tôi còn nhớ chỉ cần nghe tên
những quốc gia mà nó vừa đạp xe qua thôi cũng thấy đủ ớn chứ đừng nói
gì phải còng lưng đạp xe xa đến từng ấy.
Người cuối cùng đến thăm tôi trong khoảng thời gian đó là
bà Barbara gốc người Canada da trắng lúc đó đang định cư ở Hồng Kông.
Tôi gọi “bà” vì Barbara chỉ hơn tôi gần… 50 tuổi đời. Tóc bạc phơ nhưng
tinh thần lẫn thể xác của bà lúc ấy vẫn còn rất mạnh khỏe. Tôi quen bà
trong một dịp chúng tôi cùng vào trại cấm High Island ở Hồng Kông để
dắt các em bé tỵ nạn Việt Nam ra ngoài chơi lúc tôi còn làm việc thiện
nguyện ở bên ấy.
Sau này một số em và gia đình bị cưỡng bức hồi hương về
Việt Nam nên nhân dịp tôi làm việc ở Hà Nội, bà sẳn một công hai chuyện
vừa bay sang thăm tôi, vừa có dịp gặp lại một số em nay đã về ở Kiến
Sơn, Kiến Thụy gần Đồ Sơn, Hải Phòng.
Thế là vào một ngày đẹp trời cuối tuần, sau một đêm nghỉ
lại nhà tôi ở Hà Nội, bà Barbara và tôi đã cùng nhau bắt xe lửa đến Hải
Phòng để gặp lại các em sau gần 4 năm mất liên lạc.
Gặp lại nhau ngay tại ga xe vì tôi có điện thoại báo trước,
thấy các em chỉ có 3, 4 năm sau mà đã cao lớn hơn nhiều bà Barbara rất
vui và bảo phải chi bà đến sớm hơn để có dịp chia sẻ với các em lúc gia
đình vừa mới trở về và còn gặp nhiều bỡ ngỡ trong cuộc sống.
Nhưng mà thôi, như thế này là đã tốt lắm rồi, tôi tiếp lời
bà.
Liền sau đó đám nhỏ và một số anh chị tôi cũng từng quen
biết trong trại cùng tôi và bà Barbara dắt nhau về quê của họ ở Kiến
Sơn cách thành phố Hải Phòng khoảng trên một giờ đi xe. Và cũng như bao
cuộc họp mặt khác giữa những người bạn lâu năm không có dịp gặp nhau,
chúng tôi đã cùng nhau ôn lại những kỷ niệm ngay tại nhà của họ.
Từ những ngày chúng tôi quen nhau trong trại cấm cho đến
những thay đổi lớn lao trong cuộc sống của họ từ khi bị cưỡng bức hồi
hương về Việt Nam.
Nhưng vui như thế chúng tôi cũng không quên là ở Việt Nam
bất kỳ ai muốn nghỉ lại qua đêm ở nhà người quen cũng phải lên phường
khai báo đầy đủ. Và thể theo qui định, chúng tôi đã làm y như thế.
Sáng đến sáng hôm sau nhóm chúng tôi khoảng hai, ba mươi
người tụ họp ở nhà một người bạn vẫn còn mải mê dông dài nhắc lại
chuyện xưa mãi cho đến khi có hai anh công an phường bước vào, lúc đó
chúng tôi mới tạm ngừng nói chuyện để mời họ vào nhà uống nước.
Họ bảo họ đến để tìm hiểu xem tôi và bà Barbara đã quen với
những người tỵ nạn trong trường hợp nào và làm thế nào chúng tôi biết
để liên lạc xuống thăm những người này.
Tình thật, tôi trả lời tôi và bà Barbara đã quen họ nhân
lúc chúng tôi làm việc thiện nguyện trong các trại cấm và từ khi tôi về
Việt Nam đi làm thì tôi đã chủ động liên lạc lại.
“À, thì ra là thế”, một anh công an vừa gật đầu vừa trả lời
tỏ ý anh hiểu.
“Thế nhưng ai cho phép anh vào các trại cấm để làm việc”,
anh kia hỏi tiếp.
“Dạ, không có ai cho phép ạ. Em làm việc thiện nguyện cho
một tổ chức phi chính phủ và vì vậy em được tự động vào trại cấm dắt
các em ra ngoài chơi”, tôi thành thật trả lời.
“Không cần ai cho phép anh vào à? Thế thì ai cho phép anh
sang Hồng Kông làm việc?” cũng cùng anh công an đó tiếp tục chất vấn.
“Dạ, cũng không có ai cho phép ạ. Em nghỉ hè tự động mua vé
máy bay sang Hồng Kông làm việc, không phải xin ai ạ”. Vừa trả lời tôi
vừa nghĩ thầm trong bụng chả lẽ họ đang muốn làm tiền?
“Anh trả lời như thế mà anh nghĩ chúng tôi tin anh à? Đây
xem ra là có vấn đề đấy. Xin mời anh về phường để chúng tôi có thể làm
rõ hơn”.
Đến lúc này thì cả hai anh cùng đứng dậy mời tôi và bà
Barbara về văn phòng làm việc.
Nói thật đến lúc ấy tôi vẫn nghĩ chắc không có chuyện gì
đâu. Họ hỏi điều gì mình trả lời thành thật điều đó thì sẽ xong thôi.
Chỉ là họ không hiểu cách thức làm việc ở ngoại quốc, đi đâu không ai
cần xin phép, thế thôi, tôi đã tự an ủi mình như vậy.
Nhưng không. Tôi đã lầm. Lầm to là khác. Sau hơn một giờ
làm việc ở phường hình như họ vẫn không tin những gì tôi khai là sự
thật. Đó là tôi đã không làm việc cho bất cứ tổ chức “phản động” nào
hoặc nhận tiền của ai để sang Hồng Kông làm việc thiện nguyện. Tôi cũng
chẳng có bất kỳ sự liên hệ mật thiết nào ngoài tình đồng hương thương
mến, cảm thông nhau lúc những người Việt tỵ nạn còn bị giam trong các
trại cấm ở Hồng Kông.
Chẳng ăn thua. Tôi trả lời đến đâu cũng nghe câu hỏi được
lập lại: Anh nói thế mà anh nghĩ chúng tôi tin anh à?
Từ công an phường tôi được giải lên công an Huyện Kiến
Thụy. Nhưng sau hơn 4 tiếng đồng hồ cùng với 3 anh công an huyện làm
việc cật lực, câu nói cuối cùng tôi nghe vẫn là “đây là có vấn đề”, mặc
dù tôi cứ thắc mắc: “Ý anh nói ‘vấn đề’ là vấn đề gì vậy anh?”.
Đôi khi nghĩ lại tôi thấy lúc đó mình ngây thơ thật. Ngây
thơ đến độ chính mình đang gặp rắc rối mà cũng không biết đó là rắc rối!
Vì sau gần 6 tiếng bị quần, tôi và bà Barbara đã được
chuyển từ huyện lên tỉnh. Bằng một chiếc xe thùng trực chỉ đồn công an
thành phố Hải Phòng.
Lúc ấy, chúng tôi đã không được cho biết mình sẽ đi đến đâu
hay đã phạm tội gì mà lại bị giữ lâu đến thế. Lẽ ra tối hôm đó chúng
tôi phải bắt chuyến xe lửa cuối cùng về lại Hà Nội để hôm sau tôi đi
làm. Nhưng lại một lần nữa, người tính không bằng trời tính, tối hôm đó
chúng tôi đã được sắp xếp cho ở lại ngay tại nhà nghỉ của…Bộ Công An
sau khi toàn bộ giấy tờ bị tịch thu và được thông báo phải…trả sòng
phẳng tiền ở trọ (hình như là khoảng 20 đô cho mỗi đêm!).
Thế mới gọi là đáng nhớ phải không bạn? Trên đời này đố bạn
tìm được ai vừa bị bắt một cách vô lý, đã vậy còn phải tự mình trả tiền
phòng giam giữ cho chính mình!
Như bà Barbara đêm hôm ấy trước khi ngủ bảo tôi: it only
happens in Haiphong. Đúng là chuyện chỉ có thể xảy ra ở Hải Phòng.
Nhưng lúc ấy cả hai chúng tôi vẫn nghĩ chắc chắn ngày mai sẽ xong
chuyện vì những gì mình biết mình đã khai báo thành thật hết rồi.
Nhưng không. Lại một lần nữa chúng tôi đã lầm. Và cũng lại
là lầm to. Vì chúng tôi không những bị giam và hỏi cung cả ngày kế
tiếp, tiếp nữa, và tiếp nữa…cho đến ngày thứ năm mới được thông báo là
quá trình điều tra đã hoàn tất mà ngay sau đó chúng tôi đã được thông
báo là chúng tôi phải rời khỏi Việt Nam trong vòng 48 tiếng đồng hồ và
mỗi người bị phạt 15 triệu đồng vì – hãy lắng nghe cho kỹ - chúng tôi
đã phạm tội…“gặp gỡ người hồi hương không xin phép”!
Trời. Có thiệt không đây trời? Sau 5 ngày làm việc và trả
lời thành thật tất cả những gì chúng tôi bị hỏi, từ chuyện công cho đến
chuyện tư, từ lý lịch cá nhân cho đến tên và ngày sinh tháng đẻ của ông
bà, cha mẹ, anh em, cô dì chú bác lẫn bạn bè … họ vẫn không thấy là họ
đã bắt lầm người à? Thế là thế nào?
Tôi nhớ lúc ấy tuy vẫn còn ngây thơ nhưng tôi hăng cãi lắm
(cũng có lẽ vì tôi ngây thơ nên mới thích cãi!). Vì vậy sau khi nghe
được quyết định chính thức từ một anh công an tên Minh làm việc cho Cục
quản lý xuất nhập cảnh đọc xong và hỏi tôi có thắc mắc gì không, tôi đã
ngay lập tức có thắc mắc:
“Thưa anh, trong giấy quyết định này anh ghi tội của em là
‘Gặp gỡ người hồi hương không xin phép’ nhưng mà thưa anh trong cả năm
vừa qua ở Hà Nội, em đã gặp rất nhiều bạn là người tỵ nạn hồi hương
nhưng đâu thấy có vấn đề gì?”
“Ở Hà Nội khác, ở đây khác!” Minh trả lời cụt ngủn.
“Nhưng thưa anh trong giấy quyết định này sau khi ghi là em
đã ‘gặp gỡ người hồi hương không xin phép’ sau đó lại mở ngoặc ghi thêm
là ‘trực tiếp liên lạc, tổ chức gặp gỡ người hồi hương không xin phép’
thì không đúng như vậy vì tuy là em có trực tiếp liên lạc nhưng tổ chức
thì hoàn toàn không”, tôi cố giải thích.
“Thế thì làm cách nào anh hẹn gặp được những người này?”
Minh hỏi ngược lại tôi.
“Dạ thì như đã khai em liên lạc bằng điện thoại trước để
hẹn nhau gặp ở ga Hải Phòng”. Tôi thành thật trả lời.
“Thì đấy. Đấy là tổ chức đấy!”. Minh bình thản giải thích.
Oh! Thì ra là vậy. Tuy tai tôi nghe nhưng tôi đã không thể
nào tin nổi những gì tôi vừa được cho biết.
Trông có vẻ sốt ruột vì quá trình điều tra đã hoàn tất,
Minh gặng hỏi tôi lần cuối: Thế anh còn gì thắc mắc nữa không?
Vừa buồn, vừa tức, vừa giận, lúc ấy có lẽ tôi nên can tâm
chấp nhận sự thật phủ phàng là mình sẽ bị trục xuất ra khỏi quê hương
của mình. Nhưng không, cái máu luật sư trong người nó lại tiếp tục nổi
lên muốn tìm ra cho được lẽ phải. Tôi hỏi tiếp và chẳng cần xưng
“anh”’, “em” gì nữa:
“Trong quyết định ghi là tôi đã vi phạm hành chính nhưng
anh có thể cho tôi biết điều khoản của nghị định nào hay thông tư nào
ghi rõ gặp gỡ người hồi hương là vi phạm hành chính không?” Lúc ấy tôi
biết chắc là chẳng có điều khoản nào nhắc đến vấn đề này vì chính tôi
đã đọc qua đọc lại rất nhiều lần những quy định liên quan đến người
nước ngoài qua công việc làm mỗi ngày.
Nhưng một lần nữa tôi lại bị hụt hẫng khi nghe câu trả lời
cộc lốc của Minh nay đã gằn xuống: “Nếu anh không còn thắc mắc gì khác
thì chúng ta ngưng tại đây. Anh không có quyền chất vấn tôi về những gì
đã quyết định”.
Ah! Thì ra là thế.
Đến lúc đó tôi mới hiểu.
Là đối với công an, hỏi vậy nhưng không hẳn là vậy. Ở Việt
Nam thấy vậy mà không hẳn là vậy. Nhiều khi nó còn tệ hơn vậy.
Đừng mơ tưởng nếu mình vô tội thì sẽ được xử vô tội. Vì rất
có thể không những mình bị xử có tội mà chính mình còn phải trả tiền
công giam giữ cho…chính mình!
Vậy mới có chuyện để nói. Về ngày xửa ngày xưa. Cho đến hôm
nay vẫn thế.
Không biết các bạn có muốn nghe tiếp chuyện tôi mới bị trục
xuất không nhỉ?
Trinh Hội
Bản kiến nghị của Cù Huy Hà Vủ.
Ảnh cuộc họp HCM, Bảo Đại, có bộ trưởng Cù huy Cận.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-----------------------------------------------------------
Hà Nội ngày 30/8/2010
KIẾN NGHỊ
TRẢ TỰ DO CHO TẤT CẢ TÙ NHÂN CỰU QUÂN NHÂN
VÀ VIÊN CHỨC CHÍNH QUYỀN VIỆT NAM CỘNG HOÀ,
LẤY “VIỆT NAM” LÀM QUỐC HIỆU ĐỂ HÒA GIẢI DÂN TỘC
Kính gửi: Quốc Hội Việt Nam
Tôi là Cù Huy Hà Vũ, Công dân Việt Nam, Tiến sĩ Luật, hộ khẩu thường trú tại 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội, xin gửi tới Quốc Hội lời chào kính trọng và căn cứ Điều 53 Hiến pháp, kiến nghị với Quốc Hội như sau:
Có Hai Sự thật về chiến tranh Việt Nam kết thúc vào ngày 30/4/1975:
Sự thật thứ nhất - Đó là cuộc chiến tranh nhằm thống nhất đất nước để Độc lập dân tộc mà nhân dân Việt Nam đã giành được cách đây 65 năm, ngày 2/9/1945, được toàn vẹn.
Thực vậy, Hồ Chí Minh đã nói: “Nuớc Việt Nam là Một, Dân tộc Việt Nam là Một – Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song Chân lý đó không bao giờ thay đổi”.
Trong cuộc trả lời phỏng vấn của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) ngày 29/4/2010 tôi cũng đã khẳng định: “Dân tộc Việt Nam là một dân tộc thuần Việt suốt chiều dài lịch sử và chính đặc điểm “thuần Việt” này đã hình thành cho người Việt tư tưởng Một dân tộc, Một quốc gia hay Dân tộc đồng nhất với Quốc gia, để từ đó đi đến nguyên lý bất di bất dịch: không thể có độc lập dân tộc thực sự với một quốc gia bị chia cắt về lãnh thổ, hay Độc lập dân tộc phải gắn liền với Thống nhất lãnh thổ quốc gia, Thống nhất đất nước - Hệ tư tưởng mà tôi gọi là Chủ nghĩa Nhất thể Việt (Vietnamunism)”.
Sự thật thứ hai – Dù là tất yếu để Non – Sông Việt Nam liền một giải, để Độc lập Dân tộc được toàn vẹn thì đó vẫn là một cuộc Nội chiến, một cuộc chiến tranh Huynh - Đệ tương tàn giữa những người Việt Nam.
Vì vậy, một khi chiến tranh chấm dứt thì xoá bỏ hận thù giữa những người Việt từng ở hai bờ chiến tuyến hay Hòa giải Dân tộc là Nghĩa vụ, và hơn thế nữa, là Đạo lý của mọi người Việt Nam. Và trong sự nghiệp Hoà giải này – tôi khẳng định vĩ đại không kém cuộc chiến vừa kết thúc nhằm thống nhất đất nước –những người chiến thắng phải đi bước trước, mà giang tay ôm vào lòng những người anh em chiến bại để tỏ chữ Hiếu đối với Mẹ Chung - Tổ Quốc, để mọi người Việt dẫu chính kiến có khác biệt lại xum họp Một Nhà!
Cũng chỉ có thế, những thành công ngoạn mục mới có thể đến với người Việt Nam thời hậu chiến! Và trong trường hợp đó người Mỹ hẳn là tấm gương tốt để người Việt noi theo.
Thực vậy, sở dĩ Hoa Kỳ trở thành cường quốc số Một thế giới cho dù mới hơn 300 năm tồn tại – chưa bằng 1/10 chiều dài lịch sử của ngưòi Việt – là vì người Mỹ trước hết biết xoá bỏ hận thù dân tộc, quân đội Miền Bắc thắng trận trong cuộc Nội chiến kết thúc vào năm 1865 biết bồng súng chào những người lính Miền Nam đã hạ vũ khí!
Trên thực tế, chính Hồ Chí Minh, chứ không phải ai khác, là lãnh tụ Việt Nam đầu tiên tiếp thu bài học Hòa giải dân tộc ấy của người Mỹ khi bổ nhiệm Cựu Hoàng Bảo Đại nay là công dân Vĩnh Thụy làm Cố vấn tối cao của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Công hòa chỉ ít ngày sau khi Phái đoàn Chính phủ gồm các ông Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận tiếp nhận sự thoái vị của vị Hoàng Đế Việt Nam cuối cùng vào ngày này, 30/8, cách đây 65 năm tại Ngọ Môn - Kinh thành Huế, tạo nên sự ủng hộ tuyệt đối của mọi người Việt Nam đối với chính thể Cộng hòa.
Trớ trêu thay, ban lãnh đạo của nước Việt Nam thống nhất sau 30 năm chiến tranh chẳng những đã không học tập tấm gương Hòa giải dân tộc của Hồ Chí Minh, mà ngược lại, còn khoét sâu vết thương của Dân tộc bằng việc tập trung “cải tạo” trong nhiều năm trời cả trăm nghìn quân nhân, viên chức Việt Nam Cộng hòa, bằng kỷ niệm liên tục 35 năm nay “Ngày giải phóng Miền Nam” đậm chất “thắng – thua”… đẩy không ít người Việt thuộc chính quyền cũ rơi vào vòng xoáy của sự thù hận với hệ quả là một số người bị chính quyền mới kết vào “tội xâm phạm an ninh quốc gia”!
Và hận thù ấy lại dẫn đến chia rẽ khác không kém phần đau đớn, lần này ngay trong nội bộ những người đã ca khúc khải hoàn, bởi có mấy gia đình Việt Nam không có người thân ở bên kia chiến tuyến.
Kinh khủng hơn nữa, chính những hận thù và chia rẽ dân tộc ấy đang từng ngày, từng giờ tiếp tay cho nguy cơ Việt Nam bị Bắc thuộc lần thứ Tư và lần này e vĩnh viễn!
Nhưng Tổ Quốc Việt Nam không thể không quyết Sinh và vì vậy, Hoà giải Dân tộc hay là Chết!
Vả lại, không có lý gì 35 năm trôi qua kể từ 30/4/1975, hai thế hệ người Việt đã sinh ra trong hòa bình lại tiếp tục được nuôi dưỡng và sống trong thù hận của quá khứ chiến tranh!
Bởi những lẽ trên, nhân Kỷ niệm lần thứ 65 Ngày Độc lập 2/9 và hướng tới Kỷ niệm 1000 năm Thủ đô Thăng Long – Hà Nội, tôi – Cù Huy Hà Vũ – nhân danh con trai Nhà thơ Huy Cận, Bộ trưởng thành viên Chính phủ khai sáng nền Cộng hòa và nhân danh cá nhân, kiến nghị Quốc Hội khẩn cấp thực hiện Hòa giải Dân tộc bằng:
1. Đại xá tất cả tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam Cộng hoà theo Khoản 10 Điều 84 Hiến pháp (Quốc Hội quyết định đại xá).
2. Lấy “Việt Nam” làm Quốc Hiệu thay cho “Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Khoản 1 Điều 84 Hiến pháp (Quốc Hội làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp).
Cũng là để khẳng định một lần nữa Chân lý: Dân tộc Việt Nam chỉ có Một! Nước Việt Nam chỉ có Một!
Trân trọng và đề nghị Quốc Hội sớm hồi âm.
NGƯỜI KIẾN NGHỊ
ĐT: 0904350187
Email: havulaw@yahoo.com Tiến sĩ Luật CÙ HUY HÀ VŨ
Thư gởi QH của Ngô bảo Châu
Thư viết từ Princeton, ngày 27 tháng 5 năm 2009
Kính gửi Quí vị Đại biểu Quốc hội khóa 12 :
Đã có khá nhiều phản biện thuyết phục về kinh tế, ảnh hưởng môi trường và an ninh của dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên, tôi không có gì bổ sung thêm. Tôi mạn phép cầm bút viết cho Quý vị với tư cách là một công dân suy nghĩ và trăn trở với vận mệnh của đất nước. Phần lớn các Quý vị cũng như tôi không phải chuyên gia trong các vấn đề kể trên, nhưng với những tư liệu được cung cấp, chúng ta có thể chắt lọc một số sự thật hiển nhiên, gọi chúng bằng tên của chúng, sắp xếp chúng một cách có logic để mỗi người có thể có quan điểm riêng của mình. Đó là phương pháp làm việc khoa học mà qua trải nghiệm hàng ngày trong công việc của một nhà toán học, tôi biết nó không dễ dàng. Nhưng đó chính là trách nhiệm mà Nhân dân đã phó thác lên vai của Quý vị.
Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc dài và sâu như chính lịch sử Việt Nam. Người Việt Nam có phông văn hóa, cách suy nghĩ và ứng xử nhiều phần giống người Trung Quốc, không ít người Việt Nam có tổ tiên đến từ Trung Quốc. Quan hệ với Trung Quốc vừa là một phần hữu cơ vừa là một nguy cơ cho sự tồn vong của bản sắc Việt Nam. Đây là một dữ kiện lịch sử mà ta không nên mất thời gian bàn xem nó tốt hay xấu, đáng vui hay đáng buồn, mà dành thời gian để suy nghĩ đến hệ quả của nó. Suy nghĩ nghiêm túc có hệ thống tránh cho ta việc trong thời bình lại ứng xử tình thế như trong thời chiến: lúc thì “ môi hở răng lạnh ”, lúc lại xua đuổi Hoa kiều mà nhiều gia đình đã gắn bó với mảnh đất này qua nhiều thế hệ.
Cái tôi muốn đề cập đến trong bức thư này không phải là quan hệ giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc mà là chính sách “ thực dân mới ” của chính quyền Trung Quốc. Cũng như các nước Anh, Pháp trong thế kỷ mười chín, Mỹ trong thế kỷ hai mươi, công nghiệp Trung Quốc trong thế kỷ hai mốt phát triển như vũ bão. Hệ quả hiển nhiên là Trung Quốc hôm nay, cũng như các nước kể trên hôm qua, đói nhiên liệu, nguyên liệu và thị trường tiêu thụ các sản phẩm của mình. Như trong sách lịch sử cho học sinh phổ thông, ta gọi các nước Anh, Pháp cho quân đi chiếm thuộc địa là chính sách thực dân cũ, Mỹ trong thế kỷ hai mươi và Trung Quốc hôm nay dùng uy thế chính trị và kinh tế để giành nhiên liệu nguyên liệu và thị trường là chính sách “ thực dân mới ”. Đây cũng là một dữ kiện lịch sử mà ta không nên mất thời gian bàn xem thực dân cũ, mới là tốt hay xấu, gọi tên như thế có quá đáng hay không, mà dành thời gian để suy nghĩ đến hệ quả của nó. Hệ quả cho các nước bị thực dân như ở châu Phi thì ta biết : tài nguyên khai thác bừa bãi, môi trường tàn phá, kinh tế phát triển lệch lạc do quá phụ thuộc vào việc khai thác tài nguyên kéo theo tệ tham nhũng và bất bình đẳng xã hội nghiêm trọng.
Trung Quốc thực hiện chính sách “ thực dân mới ” một cách có hệ thống ở châu Phi, châu Mỹ la tinh và mọi nơi có nhiên liệu, khoáng sản trong đó có Việt Nam. Trong trường hợp của Việt Nam, ảnh hưởng quá mức của Trung Quốc có thể kéo thêm hệ quả nguy hiểm sau đây : quan hệ hữu cơ vốn có của văn hoá Trung Quốc với văn hoá Việt Nam trở thành đô hộ văn hoá. Đất nước, con người, văn hoá Trung Quốc có nhiều thứ để ta cảm phục và học tập. Nhưng nếu ta rập khuôn theo mô hình của họ, đi theo con đường họ đã đi, làm theo cái họ nói tức là cái họ muốn, thì ta chỉ nhận phần thiệt thòi, còn bản sắc ta thì tồn vong được bao lâu. Vấn đề độc lập văn hoá, giữ gìn bản sắc vô cùng hệ trọng, xin Quý vị lưu ý...
Xin quay lại vấn đề khai thác bô xít ở Tây Nguyên. Đọc tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc năm 2001 khi Tổng bí thư Nông Đức Mạnh sang thăm Trung Quốc và năm 2006 khi Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào sang thăm Việt Nam, ta nhận thấy một điều hiển nhiên là Trung Quốc rất quan tâm đến tài nguyên này và muốn ta khai thác bằng được. Trong những trường hợp như vậy, chỉ suy diễn ta cũng thấy việc này có lợi cho họ nhiều hơn cho ta.
Tuy nhiên, suy diễn thôi không đủ. Nghiên cứu kỹ Báo cáo của Chính phủ và các phản biện đặc biệt quan tâm đến những con số, cá nhân tôi có ý kiến sau đây :
1) Dữ kiện chính của vấn đề là Việt Nam có nguồn tài nguyên bô-xít lớn thứ ba thế giới chủ yếu tập trung ở Tây Nguyên. Dữ kiện này kéo theo sự quan tâm của các nước công nghiệp đói bô-xít chứ không kéo theo ta phải khai thác bô-xít. Về phía ta, dữ kiện trên kéo theo ta có thể lựa chọn có khai thác bô-xít hay không và nếu có, ta có thể lựa chọn thời điểm và qui mô thích hợp.
2) Báo cáo của Chính phủ cho biết quy hoạch bô-xít được lập trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng. Tại thời điểm này, kinh tế toàn cầu đi vào khủng hoảng, có nguy cơ kéo dài.
Dữ kiện chính về kinh tế vĩ mô không còn đúng nữa, không rõ hiệu quả kinh tế đã được tính toán lại như thế nào. Trong báo cáo của Chính phủ, phần chắc chắn là phần lỗ những năm đầu, vì là lỗ kế hoạch. Ngay cả tính toán giả định ta cũng chưa rõ là sẽ lỗ kế hoạch bao nhiêu năm. Phần lãi sau đó phụ thuộc vào nhiều giả thiết : giá nhôm tăng trở lại, mưa đủ để có nước rửa quặng, nhà nước đầu tư thêm vào đường sắt để vận chuyển quặng. Nếu cứ cho mỗi giả thiết sác xuất 50-50 như cách diễn đạt của lãnh đạo Than khoáng sản, sác xuất có lãi sau một số năm lỗ kế hoạch, nhiều nhất là một phần tám, chưa tính đến chi phí cho môi trường.
3) Diện tích sử dụng cho khai thác bô-xít dự kiến là 8,6 % tỉnh Đắc Nông là một con số khổng lồ nếu ta nghĩ đó là 8,6 m2 trên tổng diện tích 100 m2 nhà của ta.
4) Báo cáo cho biết khai thác bô-xít không thể tránh khỏi ảnh hưởng nhất định đến môi trường và có nêu một số giải pháp công nghệ khắc phục. Trong các phản biện có nêu khó khăn đặc thù của ta là khai thác bô-xít ở đầu nguồn một số sông lớn như sông Đồng Nai, chưa có tiền lệ trên thế giới. Cá nhân tôi băn khoăn nhất chỗ thiếu hoàn toàn dự toán chi phí cho việc bảo vệ môi trường. Ngay trong nhưng trường hợp đơn giản hơn như Vedan, công nghệ thì đã có, nhưng vi phạm môi trường thì vẫn đỡ được 30% chi phí. Như vậy phần ảnh hưởng đến môi trường là phần chắc, phần bảo vệ môi trường còn phụ thuộc vào nhiều giả thiết, có cái phụ thuộc vào ta (chọn công nghệ), có cái không phụ thuộc vào ta (thời tiết, địa thế), có cái ta chưa tính toán đến (chi phí), vì vậy rất đáng lo.
5) Báo cáo cho biết dự án có ảnh hưởng tốt cho xã hội, cụ thể tạo ra hàng ngàn công ăn việc làm cho nhân dân địa phương. Nếu so sánh với mức đầu tư hàng tỉ đô-la Mỹ, thì có nhiều cách hay hơn, an toàn hơn, hiệu quả kinh tế nhãn tiền hơn, để tạo vài ngàn việc làm. Lưu ý con số công ăn việc làm trong báo cáo tương đương với con số hộ dân bị di chuyển. Còn viễn cảnh xây dựng trung tâm dịch vụ, khách sạn, du lịch và giải trí xung quanh hồ chứa bùn đỏ, theo tôi, ít có sức thuyết phục.
Xin nhắc lại, cũng như phần đông Quý vị, tôi không phải chuyên gia ngành khai thác khoáng sản, nhưng qua nghiên cứu kỹ Báo cáo của Chính phủ và các phản biện của nó, tôi nhận thấy trong Quy hoạch chung khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, phần có hại thì cầm chắc, phần có lợi thì mong manh. Bối cảnh kinh tế thế giới rất không thuận lợi cho khai thác nguyên liệu thô, vậy cái gì thúc đẩy ta triển khai khai thác ào ạt vào thời điểm này.
Khác với các nước Châu Phi thế kỷ mười chín, đất nước chúng ta là một quốc gia độc lập có chủ quyền. Quý vị, phần nhiều ở tuổi cha, tuổi chú của tôi, biết rõ hơn tôi : độc lập chủ quyền của ta không phải tự nhiên mà có. Nước ta có một Quốc hội do nhân dân bầu ra, một Chính phủ do Quốc hội chỉ định, một Quân đội phục tùng Chính phủ. Đó là một thành quả cũng không phải tự nhiên mà có.
Tôi kính mong Quý vị bỏ thời gian, nghiên cứu tường tận Báo cáo dự án khai thác bô-xít Tây Nguyên, các phản biện khoa học của nó, lắng nghe ý kiến cử tri và suy nghĩ đến sự tồn vong của đất nước, để rồi xây dựng quan điểm riêng của Quý vị, trình bày nó rõ ràng trong nghị sự của Quốc hội và chịu trách nhiệm về nó trước các cử tri. Tôi rất biết đây là việc khó, nhưng dù Quý vị muốn hay không muốn, nhân dân đã đặt niềm tin lên vai của Quý vị.
GS. TSKH Ngô Bảo Châu
Giáo sư toán học Đại học Paris 11, Pháp,
Thành viên của Institute for Advanced Study, Princeton, Mỹ.
Địa chỉ hiện tại :
School of Mathematics
Institute for Advanced Study
Einstein Drive
Princeton NJ 08540 U.S.A.
Sunday, August 29, 2010
Bài này rất hay nhưng không thể embed audio file vào được nên phãi để nằm ở mediafile.
Xin các bạn copy về để nghe, thời gian là 30 phút.
http://www.mediafire.com/?dzwqq4jml2d
Tác giả : Nguyển mỹ Linh.
30 tháng tư 2010.
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjyzaQllZume-pqMhgoDj-WMqnN5SEdsQmNnNEnROK3h0egX53-rxNm4BQ5_TUfU4rqgskeSt6qOyX6ChN1DLDF2DkTvgPh0ZO7reeUCt8jfAjJUvnVZmw_57PMGwkiYAyy_7fNcE0jWTw/s320/clip_image001.jpg)
SỰ KIỆN 30 THÁNG TƯ
truongduynhat | 30 Apr, 2010, 04:42 | góc nhìn của Nhất | (6579 Reads)
Sẽ cần thêm bao nhiêu thời gian/Để Ba mươi tháng tư thôi là ngày “Quốc hận”?/Sẽ cần thêm bao nhiêu tháng năm/Để “Quốc giỗ” cho những người tử trận/Không phân biệt thắng - thua, được - mất.
35 năm. Không biết bao nhiêu bài viết ngắn dài đủ cả, không thiếu cả những công trình nghiên cứu quốc gia, quốc tế dài ngoằng ngoẵng… nhìn nhận về sự kiện 30 tháng Tư 1975. Hóa giải- hòa giải cũng nghe đến ù lỗ tai rồi.
Tôi đọc cũng nhiều, đọc kỹ. Nhưng quả thật ít cái nào tạo được ấn tượng đặc biệt nơi tôi bằng mấy câu ngắn giản đơn này. Không nhớ đã dẫn mấy câu sau bao nhiêu lần trên các bài viết của mình. Xin một lần nữa dẫn lại. Tác giả là chị Thanh Chung, một phụ nữ Việt hiện đang làm việc cho tổ chức Quĩ nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEP) tại New York. Một phụ nữ Việt thấp nhỏ, giản dị đến khiêm nhường nhưng đã cho tôi nhiều ấn tượng mạnh, dù chỉ một lần ngồi với nhau tại New York, vội vã một cốc cà phê và bữa cơm trưa.
Sẽ cần thêm bao nhiêu thời gian
Để Ba mươi tháng tư thôi là ngày “Quốc hận”?
Sẽ cần thêm bao nhiêu tháng năm
Để “Quốc giỗ” cho những người tử trận
Không phân biệt thắng - thua, được - mất.
(THANH CHUNG)
Cũng trong bài của chị Thanh Chung (bấm xem theo đường dẫn ở cuối bài), một comment của bạn đọc Đặng Kim Toàn khiến tôi… ứa nước mắt:
“Ngày TT Thiệu qua đời, dù là “nguyên thủ của tôi” nhưng tôi không khóc, tôi chỉ bùi ngùi trước sự mất còn của một nhân vật lịch sử và hiểu rằng, ông chỉ là một phần quá khứ của tôi chứ không phải tương lai.
Ngày Thủ tướng Võ Văn Kiệt mất tôi lại khóc, bởi tôi biết cái cơ hội xoá đi cảnh tượng “triệu người vui cũng có triệu người buồn” sẽ không còn nữa… Và thật thế, 30/4 năm nay, 35 năm sau ngày thống nhất đất nước, “đất nước” lại chong đèn kết hoa, lại diễu binh mừng chiến thắng !
Bao giờ “đừng thêm những tháng tư” ? Bao giờ “để vết thương kéo da non thay vì vỡ toạc” ? Ai - cấp lãnh đạo nào thay Thủ tướng Võ Văn Kiệt để làm được những điều mà ông Kiệt đã từng trăn trở ?
Tôi là “nguỵ”, ba tôi là Đại tá Sư trưởng QĐNDVN. Năm 1975 tôi ở tù 7 năm và bây giờ đang định cư tại Mỹ. Ba tôi 82 tuổi đang chờ tôi từng ngày…
Có cuộc chiến nào “tàn ác” như cuộc chiến VN ?”
35 năm rồi. Tại sao cứ đến dịp là lại đào xới thêm, sao không đóng lại để chìa bàn tay ra với nhau? Không thiếu đất nước, dân tộc trên thế gian này cùng cảnh ngộ như ta, cũng chiến tranh, cũng cắt chia, cũng hi sinh mất mát, cũng… hận thù! Nhưng họ bỏ qua, xóa nhòa để dang tay kéo ôm nhau được.
Còn chúng ta? Hình như đây là điểm yếu nhất của người Việt, của dân tộc Việt?
Subscribe to:
Posts (Atom)