Tựa
Tôi
không phải là một nhà văn, mà tôi chỉ là một người lính, lính tác chiến đúng
nghĩa của danh từ, và những điều tôi viết trong quyển sách này chỉ là một câu
chuyện, câu chuyện thật một trăm phần trăm được kể lại bằng chữ. Tôi viết những
điều mà những thằng lính chúng tôi đã trực tiếp tham dự nhưng không ai viết
lại, trong khi nhiều người đã viết về những chuyện chiến trường thì hình như
chẳng có ai dự.
Trong
lứa tuổi của tôi, lứa tuổi dưới mười khi theo gia đình di cư từ Bắc vào Nam,
ngoại trừ những người có thân nhân ruột thịt bị giết bởi Việt Cộng, còn hầu
hết, có bao nhiêu người thực sự căm thù Việt Cộng đâu, vì rõ rệt một điều là từ
lứa tuổi tôi trở xuống, có đứa nào biết Việt Cộng là cái gì đâu. Cũng y như lứa
tuổi dưới mười khi theo cha mẹ qua Mỹ từ năm 1975 ở đây bây giờ. Cũng thù ghét
Việt Cộng vậy, nhưng chỉ là cái thù gia truyền, cha mẹ thù ghét thì mình cũng
thù ghét theo thế thôi, chứ chẳng có gì là sâu đậm cả. Cho đến khi lớn lên, đầu
óc đã tạm đủ để suy xét thì khổ một nỗi, hệ thống tuyên truyền của Việt Nam
Cộng Hòa lại có giá trị phản tuyên truyền nhiều hơn là tuyên truyền. Cho nên
khi vào quân đội, tôi tình nguyện vào đơn vị tác chiến thứ thiệt vì căm thù kẻ
địch thì ít mà vì cái máu ngông nghênh của tuổi trẻ, vì bị kích thích bởi những
cảm giác mạnh của chiến trường thì nhiều.
Tuy
nhiên, vì ở một đơn vị thường xuyên tác chiến, cùng gian nguy, cùng sống chết
với nhau nên tôi đã gắn bó với bạn bè, đồng đội trong đơn vị như với anh em
ruột thịt. Tôi yêu đơn vị tôi, tôi yêu màu mũ, màu áo tôi, tôi yêu thuộc cấp
tôi và tôi kính trọng thượng cấp tôi. Tôi bình thản chấp nhận mọi thói hư tật
xấu của thượng cấp và thuộc cấp, và chính tôi cũng có quá nhiều thói hư tật
xấu.
Nhưng,
khi hai ông xếp lớn của tôi là đại tá lữ đoàn trưởng và trung tá lữ đoàn phó bỏ
lữ đoàn gồm bốn tiểu đoàn tác chiến và các đơn vị phụ thuộc tổng cộng vào
khoảng trên dưới bốn ngàn người trong cơn quẫn bách để chạy lấy thân thì lòng
căm hận của tôi đột nhiên bùng dậy. Tôi giết Việt Cộng không gớm tay nhưng
không bởi lòng căm thù vì giữa chúng tôi và Việt Cộng đã có lằn ranh rõ rệt,
hai bên chiến tuyến hẳn hòi, hễ cứ thấy mặt nhau là giết, dùng mọi mưu mọi cách
để giết nhau. Còn đằng này, vừa mất niềm tin vừa tủi nhục vì những người mình
vừa kính trọng vừa phải tuân lệnh một cách tuyệt đối.
Làm
thuyền trưởng thì phải sống chết theo tàu, làm đơn vị trưởng thì phải sống chết
theo đơn vị. Tôi muốn nói đến tinh thần trách nhiệm của người chỉ huy. Người có
quyền hành mà không có trách nhiệm nào có khác gì kẻ phản bội. Chúng ta thua
không phải vì kẻ địch mạnh mà vì trong hàng ngũ chúng ta có quá nhiều kẻ phản
bội và hèn nhát. Chính vì lòng thù hận sự hèn nhát và vô trách nhiệm của cấp
chỉ huy nên hình ảnh và diễn tiến những ngày cuối cùng trước khi cả lữ đoàn tan
rã và bị bắt bởi khoảng hơn một đại đội du kích Việt Cộng vào nửa cuối tháng Ba
năm 1975 đã như một cuốn phim nằm in trong trí nhớ của tôi, chỉ cần một cái ấn
nút là được chiếu lại một cách rõ nét với đầy đủ những suy nghĩ và phản ứng của
tôi, với từng diễn tiến nhỏ mà tôi đã phải trải qua.
Tôi ôm cái kỷ niệm đau đớn và tủi nhục này cả chục năm nay, qua những năm tù đày, qua những ngày tháng lang thang ở trại tỵ nạn, qua đến Mỹ, tôi đọc được lời tuyên bố của một ông tướng cũ nào đó trên báo đại khái “Ðể mất nước là tội chung của mọi người, làm lớn thì tội lớn, làm bé thì tội bé”. Tôi nghĩ ngay đến một điều là những thằng đâm sau lưng chiến sĩ có tội, và những thằng chiến sĩ đưa lưng cho xếp của mình đâm cũng có tội luôn. Ðiều này đã là cái ấn nút để tôi kể lại câu chuyện này.
Tôi ôm cái kỷ niệm đau đớn và tủi nhục này cả chục năm nay, qua những năm tù đày, qua những ngày tháng lang thang ở trại tỵ nạn, qua đến Mỹ, tôi đọc được lời tuyên bố của một ông tướng cũ nào đó trên báo đại khái “Ðể mất nước là tội chung của mọi người, làm lớn thì tội lớn, làm bé thì tội bé”. Tôi nghĩ ngay đến một điều là những thằng đâm sau lưng chiến sĩ có tội, và những thằng chiến sĩ đưa lưng cho xếp của mình đâm cũng có tội luôn. Ðiều này đã là cái ấn nút để tôi kể lại câu chuyện này.
Ðiều tôi
muốn nói trong quyển sách này là không ai là không quay lại nhìn chỗ mình vừa
ngã, và cũng không ai là không quay lại nhìn đống phân mình vừa thải. Ngã là
lỗi của chính mình, và phân có thối cũng là phân của mình, vậy mà tại sao cả
chục năm nay vẫn không thấy ai dám quay nhìn lại cái lỗi đã làm cho mình ngã
lên ngay trên đống phân của mình, mà chỉ có toàn những lời chửi bới và đổ lỗi
cho người khác, can đảm lắm cũng chỉ dám nhận một cái lỗi chung chung “lớn lỗi
lớn, bé lỗi bé” đúng theo cái kiểu “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”.
Thằng thất phu còn có lỗi thì còn ai mà không có lỗi, tôi cũng đành có lỗi vậy.
Tôi
không nhớ câu này của ai: “Cái đám quân thần của triều đình cũ chẳng có gì phải
ngại cả, vì khi có quân có quyền trong tay họ còn chẳng làm được trò trống gì,
thì bây giờ, chỉ còn trơ lại có mỗi cái thân giá áo túi cơm, hỏi rằng họ sẽ làm
được gì hơn ngoài cái giá và cái túi”.
Ðâu
phải đất nước ta là một bàn cờ để hễ đánh thua ván này, xóa đi xếp quân làm lại
bàn khác mà tướng vẫn là tướng, quân vẫn là quân. Ðâu phải những con xe, con
mã, con chốt đã chết đi đều có thể dựng đầu dậy để làm lại một trận mới.
Trí đã
không mà dũng cũng không, chỉ có mỗi cái tài dở dở ương ương là sử dụng một
cách bừa bãi cái dũng của người khác đến nỗi phải bỏ cả đất nước mà chạy, đánh
lừa để bỏ hàng triệu thằng dám chiến đấu tới cùng vào trong những trại tù đỏ,
vậy mà vẫn còn dám chường mặt ra đòi tiếp tục làm cha mẹ dân thì quả là quá lắm
lắm. Cái dĩ vãng thối tha và hèn nhát thì dù cho người đương thời có thể bỏ
qua, nhưng lịch sử đâu có tha thứ. Vẫn cái chính danh là chống Cộng nhưng cái
ngôn của các ông trước kia làm xếp lớn đã không thuận rồi, bây giờ phải để cho
lớp người mới. Với tư thế mới, họ mới là những người thuận ngôn. Danh chính
ngôn thuận mới có thể thắng được Việt Cộng, khôi phục lại được đất nước. Những
con chốt thấp cổ bé miệng, những thằng bị đè đầu sai khiến ngày xưa và những
người mới lớn bây giờ mới có quyền nói và mới là người có tư cách làm.
Quyển sách này không hề là một tiểu thuyết mà
là một hồi ký. Bởi vì tôi chưa từng là một người cầm bút và tôi cũng không biết
cách sắp xếp câu chuyện như thế nào. Tháng Ba thì mọi người đã
rõ, còn Gãy Súng, tôi muốn nói lên một điều đau lòng cho những
thằng lính cầm súng, khẩu súng mà không có đạn thì giá trị không bằng một khúc
củi mục, chính tôi đã dẫn đại đội xung phong lên chiếm mục tiêu mà chỉ bắn bằng
mồm. Súng của chúng tôi có phải là đã bị bẻ gãy không khi mà vẫn có thể tiếp tế
đạn cho chúng tôi để chúng tôi chiến đấu? Ai đã bẻ gãy súng của chúng tôi? Tôi
đặt chữ Gãy Súng cho quyển sách này là như vậy.
Và tôi gọi Tháng Ba Gãy Súng là
hồi ký vì tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về những điều tôi viết, tất cả những
địa danh, những tên người, tên đơn vị, tất cả những diễn tiến đều là thật, thật
một trăm phần trăm. Tôi không lồng vào đấy bất cứ một hư cấu nhỏ nào, chắc chắn
là tôi đã quên khá nhiều chi tiết, và với cấp bậc và chức vụ thấp kém của tôi,
chắc chắn là có rất nhiều dữ kiện mà tôi đã không được biết. Tôi viết lại hoàn
toàn sự thật những điều mắt thấy, tai nghe, những điều tôi đã nhận lệnh và đã
thi hành.
Nếu Tháng Ba Gãy Súng là tiểu
thuyết thì tôi lại phải thêm một câu màu mè đại khái “những nhân vật và những
sự việc đều do sự tưởng tượng của tác giả, mọi sự trùng hợp chỉ là ngẫu nhiên
ngoài ý muốn…”, trong khi tôi chỉ có một điều ngoài ý muốn là tôi đã không đủ
khả năng để viết tất cả những điều tôi phải viết.
Cao Xuân Huy
No comments:
Post a Comment