Phan Nhật Nam
LTS: Nhà văn Phan
Nhật Nam không xa lạ với chúng ta. Ông nổi tiếng với tác phẩm Hè Đỏ Lửa 72.
Chúng tôi trân trọng giới thiệu mộât tuỳ bút của ông. Ông sẽ tiếp tục cộng
tác với Mạch Sống qua mục “Lịch Sử Qua Lời Kể”.
Chiếc xe đò vừa
ngừng trước khu Chợ ABC, Đường Bolsa, Thành Phố Westminster, nam Cali, đám
hành khách vội vã bước lên. Mỗi người ngoài ghế cơ hữu sát cửa sổ thuộc
những hàng ghế đầu, còn chiếm dụng thêm một chỗ ngồi bên cạnh như thể để
giành cho thân nhân, người quen (sẽ cùng đi theo chuyến xe). Nhưng thực ra
không là như vậy, mà chỉ do ý hướng muốn có thêm chỗ ngồi rộng rãi, trường
hợp hành khách không mấy đông vào những ngày trong tuần. Xong, tất cả lại
tuần tự bước xuống xe với vẻ mặt bình an, hài lòng như vừa thủ đắc được một
điều hợp ý nguyện. Hoá ra những người Việt luôn cầu một nguồn vui. Ông
khách nhận ra điều nầy khi chậm rãi lên xe tìm chỗ ngồi nơi những hàng ghế
cuối. Thì ngồi đâu cũng được, rồi thế nào cũng tới, không cần gì phải vội.
Ông hiểu ra và áp dụng điều đơn giản nầy như một cách khôn ngoan sau nhiều
lần thất bại (cũng có tính tất nhiên, không thể nào từ chối, điều chỉnh)
vào buổi cuối đời.
- Tôi có thể ngồi
đây không? Ông chỉ vào chiếc ghế trống bên cạnh người đàn ông ước chừng
cùng lứa tuổi.
- Bác cứ ngồi. Không
có ai. Người khách đồng hành đáp gọn, sau khi xếp lại hai chân, nới rộng
khoảng trống giữa hai người.
Khi đã yên chỗ, ông
bắt đầu gợi chuyện do người kia có nét mặt bình thản, vui hoà; tóc hớt
ngắn, động tác nhanh gọn của giới quân nhân, kẻ quen nghề chỉ huy,và sẵn
lòng tuân lệnh. Ông có ngay nhận xét và tin vào suy đoán của mình. Cũng
bởi, ông với họ vốn có những liên hệ sâu xa từ thuở xa xưa.
- Bác đi San José?
- Thì xe nầy chỉ
chạy đến đấy. Người đồng hành trả lời mau mắn, tỏ ý buồn cười vì câu hỏi dư
thừa, vô ích.
- Nó còn chạy đến
Sacramento. Ông khách điều chỉnh.
- Chiếc khác chứ
không là chiếc nầy. Đến San José, ai đi Sacramento sang xe nhỏ hơn. Người
đồng hành giữ chắc ý kiến. Chiếc nầy chỉ tới San José thôi.
- Vậy bác thường đi
xe đò nầy? Ông chuyển câu hỏi để tránh điều không cần bàn cãi. Cách né
tránh của người ngại đụng chạm.
- Ông bạn tôi trên
kia nói vậy. Tôi lên San José tìm ông ta sau mấy mươi năm. Người đàn ông tỏ
ý muốn chấm dứt câu chuyện bằng cách ngó mông ra ngoài xe.
Đám hành khách lần
lượt lên. Từ tốn, chậm rãi bởi tất cả đã giành sẵn những chỗ tốt (có thêm
chỗ ngồi trống bên cạnh)... Mời cô bác lên xe, còn mười phút nữa xe chạy.
Anh tài phụ nói to nhắc nhở; tài xế cho nổ máy, động cơ chạy đều, khí lạnh
lan toả. Người tài phụ bắt đầu phát những phần thức ăn. Bánh mì kẹp thịt,
chả lụa, hoặc xôi của hàng thực phẩm khô nổi tiếng, Lee’s Sandwich.
Xe chạy thì mở băng
ca nhạc nghe chú. Mà phải là băng hài mới được! Một bà khách lên tiếng sành
sõi. Phụ tài đáp nhanh. Có liền dì hai, để con chia bánh và nước xong. Ông
khách có cảm giác gần gũi, ấm áp thân tình như đang sống lại sinh hoạt của
những chuyến xe đò đi lục tỉnh miền Nam từ bến xe Petrus Ký Sài Gòn ở những
năm 60, trước khi chiến tranh trở nên nặng độ. Ông liếc sang người bạn đồng
hành, muốn chia sẻ ý nghĩ, nhưng người nầy đã úp chiếc nón lưỡi trai lên
mắt.
Xe chạy ra Xa Lộ 405
North, những rèm cửa che nắng kéo xuống, những màn ảnh ti-vi treo cao trước
hàng ghế ngồi bắt đầu hoạt động. Đám hành khách chăm chú theo dõi, thỉnh
thoảng rộ cười thích thú khi những vai hài bắt đầu màn lắc lư, nhún nhẩy
theo điệu nhạc disco với y phục áo dài, khăn đóng cổ truyền người Việt. Ông
khách muốn tiếp tục câu chuyện với người đồng hành vì nhớ lại câu nói
“...mấy mươi năm nay không gặp...”, cũng do đang nhìn lên màn ảnh vô tuyến
với những vai nam, nữ vui nhộn, nên ông thấy lại cảnh tượng danh hài Thanh
Việt ngồi rũ bên ly rượu trong quán Thanh Thế Đường Nguyễn Trung Trực Sài
Gòn sau ngày Ban Mê Thuộc bị Bắc quân chiếm đóng (10 tháng Ba, 1975). Hôm
ấy, bộ râu đen dày của Thanh Việt không còn là nét sinh động kích thích cơn
cười vỡ như mỗi khi anh nhếch mép, diễu màn vui trên sân khấu, hoặc màn
ảnh, nhưng đã là dấu hiệu một sự sống đang dần bị đe doạ, suy hoại, vất
bỏ... Thêm chiếc đầu cạo trắng loang lỗ. Thanh Việt sụp xuống thảm hại
trông như bức tranh Anh Hề Thảm Thiết của Rouault (*). Hề thì vui thiệt,
nhưng khi buồn thì hề trông tội hơn ai hết. Ông cũng nhớ món đồ chơi nhỏ
nhận được (*) Rouault (1871-1958), Hoạ sĩ Pháp, nổi tiếng với những hoa
phẩm mang đường nét mạnh mẽ, bi thảm, kỳ bí vào dịp lễ Giáng Sinh đầu đời
lính ở quân trường. Một con lật-đật tượng hình thằng hề, và cảm giác hiu
hắt khi mân mê hình thằng hề trên tay. Hình như sau đó mình gởi cái ấy kia
về cho em - Đứa nhỏ không hề có đồ chơi từ tấm bé.Trí nhớ vụt chuyển qua
một tình thế bất ngờ, ông không muốn nhớ thêm những điều khó khăn, nên quay
mặt về phía người bạn đồng hành. Đúng lúc, người nầy cất chiếc nón lưỡi
trai ra khỏi mặt.
- Bác dễ ngủ quá há!
Ông nói bâng quơ làm như không để ý, và tiếp vào câu chuyện đang muốn theo
dõi. Bác lên chơi trên ấy, bạn bè lâu lâu gặp lại chắc vui lắm. Ông nhấn
mạnh chữ “lâu lâu gặp lại” một cách cố ý.
Người đồng hành có
ngay phản ứng. Lấy đâu mà gặp lại, từ năm “bảy-lăm” tới giờ. Tính chính xác
của người thuộc giới nhà binh càng được xác định. Ông khách cười thầm thích
thú, tiếp tục câu chuyện với cách thân tình.
Ông hỏi không ngần
ngại, ông đi HO mấy? Bác được chuyển qua ông một cách cố ý.
- Đúng là HO12,
nhưng rốt cuộc cứ trầm trầy, trầm trật miết sau nầy mới đi RD4 ngang với
HO22. Vi-xi chơi khó thiệt. Lời đánh giá mang ý vui khách quan chứ không là
phê phán tức bực.
Được thúc dục bởi
cách nói cởi mở, thẳng thắn từ người đồng hành, ông khách vào thẳng vấn đề
muốn nghe đến. Vậy tại sao ông với ông ở trên San José không gặp được nhau;
đi tù về, ông nào cũng chân trong, chân ngoài, phe ta tập trung suốt ngày
trước công viên Dinh Độc Lập bàn chuyện đi Mỹ.
- Tôi đi tù về chưa
bao lâu thì giả đã vượt biên, thêm cảnh vợ con quá kẹt nên tôi xuôáng làm
rẫy dưới Suối Nghệ, Bà Rịa để có cái ăn, đâu lên Sài Gòn gặp giả được. Gia
đình tôi chạy từ Quảng Trị vào đó từ “bảy hai”.
- Ông người Quảng
Trị hay sao, tôi ở Đà Nẵng, Quảng Nam. Ông khách bày tỏ cảm thông, gần gũi,
bắt đầu với những địa danh miền Trung.
- Không, tôi người
Bình Dương, dạy ở Búng, năm Mậu Thân bị động viên đổi ra Sư Đoàn I, gặp bà
xã tôi ngoài đó. Bả là em của ông kia. Giảû ngầu lắm, trong nhảy dù, mấy
đơn vị bộ binh, thiếp giáp ngoài Huế, Quảng Trị nghe đến tên giả ai cũng
kính nể. Đây, tôi cho ông coi cái nầy. Người đồng hành mở chiếc xắc cầm tay
để dưới chân.
Ông khách không ngờ
được mau chóng dự phần vào câu chuyện, hăm hở nhìn xuống chiếc xắc đang
được day day mở ra.
Thấy chưa, cái điếu
đẹp không? Người bạn đồng hành chuyển cho ông chiếc điếu cầy hút thuốc lào
bằng ống tre vàng óng, đầu và cuối ống bịt vòng kim loại, thân ống chạm trỗ
huy hiệu các quân binh chủng quân lực miền Nam. Nét khắc tinh xảo chứng tỏ
người tạo hình có tính thẩm mỹ cao, và lòng nồng nhiệt yêu quý quân đội.
- Tôi cũng đã thấy
nhiều ống điếu loại nầy, nhưng quả tình cái điếu nầy đẹp thật, khắc hoạ đủ
hết các quân, binh chủng chiến đấu. À mà có đến cả huy hiệu đơn vị tiểu
đoàn của bên nhảy dù. Ông khách nhận ra khi đọc đến lời trang tặng. Trung
Tá Sông Lô, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù. KBC 4919.
- Thì giả là tiểu
đoàn trưởng dù mà. Nhưng cái điếu nầy còn cứu mạng được bốn ông thần liều
nữa! Người đồng hành vuốt vuốt dọc thân ống như đang cầm vật linh thiêng,
quý giá. Đáng lẽ tôi gửi trả bằng đường bưu điện, nhưng tiện dịp đi Cali,
nên nay đem trả luôn tiện để gặp mặt giảû. Ông ấy gởi người đem về Bà Rịa
cho bà xã tôi giữ từ khi ra trại; ra trại là tính chuyện vượt biên liền.
Một anh, một em, gia đình không còn ai. Để tôi kể cho ông nghe, bốn giờ
chiều mới tới San José, bây giờ mới mười-hai giờ kém hai-mươi. Sự chính xác
thời giờ được lập lại như bảo đảm tính thật của câu chuyện.
Sáng 29 tháng Tư,
1975, Trung Tá Lê Lô, danh hiệu truyền tin “Sông Lô”, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu
Đoàn 7 Dù, kiêm nhiệm chức chỉ huy Chiến Đoàn Đặc Nhiệm Số 7 gồm những đơn
vị pháo binh, thiết kỵ do Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III tăng phái có nhiệm vụ
chận hướng tiến của những sư đoàn Bắc quân theo trục Xa Lộ Biên Hòa – Sài
Gòn. Danh xưng một chiến đoàn nhưng thật sự chỉ là những thành phần không
còn hệ thống chỉ huy của Quân Khu III, nay viên tư lệnh quân đoàn giao hẳn
cho lực lượng nhảy dù điều động vào những giờ phút cuối cùng của trận
chiến. Sông Lô vừa chận địch vừa lui binh về gần Sài Gòn với lời gầm quyết
liệt:
“Thằng nào chết để
tại chỗ, thằng nào bị thương sống được thì bò theo đơn vị. Không tản
thương. Không tiếp tế. Không tăng viện. Không yểm trợ.”
Mười giờ mười phút sáng ngày 30, khi nghe lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh,
Sông Lô đứng trên cầu xa lộ nhìn suốt bình nguyên, những dãy đồi thấp từ
Thủ Đức đến Biên Hòa, Long Thành qua những vị trí hằn sâu vào thị giác, lên
khối não bộ. Trường Bộ Binh, Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 2 Dù, Nghĩa Trang Quân Đội
Long Bình, doanh trại hậu cứ tiểu đoàn ở Tam Hiệp, và đằng xa phi trường
Biên Hòa bốc khói mù. Mười hai năm kể từ ngày ra trường, ông đã sống với vùng
đất nầy không một giờ khắc vắng mặt. Lê Lô thấy cái chết thực dần xâm chiếm
từng phần thân xác một cách cụ thể. Ngày 15 tháng 6, 1975 cùng những người
bạn lính, Trung Tá Lô đi trình diện cơ quan quân quản theo lệnh gọi tập
trung cải tạo với thái độ bình tỉnh, thản nhiên. Không gia đình, không tài
sản. Ông đã mất tất cả từ buổi sáng ngày 30 tháng trước, nay không còn gì
để phải mất thêm. Tháng 6, 1967 Lô đến Sơn La với tâm trạng cùng đành sau
chuyến đi địa ngục từ Tân Cảng, nơi chân cầu Sài Gòn đến Hải Phòng bằng tàu
Sông Hương. Năm ngàn con người ngồi nêm cứng trong hầm chứa than; đại tiểu
tiện tại chỗ suốt hai ngày đêm di chuyển. Tiếp chuyến xe lửa từ Hải Phòng
lên vùng thượng du xuyên miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong toa dùng chở than
đá và súc vật nay đóng kín để nhồi nhét 200 con người xếp đứng, ép khít vào
nhau.
Chiều ngày 23 tháng
6, 1977, Nguyễn Lô đến ga Yên Báy với hơi người chết, phân, nước tiểu từ
những thây người chung quanh lấm loét, đọng nghẹt hơi thở, dưới lớp da, sâu
chân tóc. Từ tình trạng sống trong cảnh chết chịu đựng từ ngày trình diện
đi tù tại Trường Lê Văn Duyệt, Gia Định suốt hai năm qua, nên khi qua
phà Aâu Lâu trên Sông Hồng vào hẻm núi Hoàng Liên Sơn, đi giữa hai hàng dân
quân (gồm cả đàn bà, trẻ con) với những viên đá ném dày, tiếng chưởi không
ngắt nhịp, Lô chấp nhận, đồng thuận với cái chết ắt sẽ đến như một điều tự
nhiên, hợp lý nơi hẻm hốc núi rừng xa xôi u thẩm xa lạ nguy biến nầy. Thế
nên, vào buổi học tập toàn trại do cán bộ chính trị cấp trung ương từ Hà
Nội phái đến (phụ trách giảng huấn hệ thống trại cấp tá), Lô cáo bệnh,
buông màn nằm ngủ. Ông bị dẫn giải đến giữa hội trường với lời chất vấn:
“Tại sao anh trốn tránh học tập?” Trung Tá Lê Lô trả lời dứt khoát cụ thể:
“Tôi chẳng có gì để học hết, các ông chỉ nói đi nói lại những điều đã nghe
nhiều lần từ trong Nam. Tôi đã đem thân đi trình diện ở tù, các ông muốn
làm gì thì làm.” Lô bị tống giam vào nhà kỷ luật vô thời hạn với vị thế
thân người kéo căng cứng bởi một hệ thống cùm đục thủng từ những khúc cây.
Tay, chân, phần bụng đồng bị siết chặt giữa những vòng khớp gỗ sù sì
thô nháp. Con người tênh hênh, trần truồng phơi trên nềân đất nện với khí
lạnh miền thượng du Bắc Việt đóng băng mờ kín ô thông hơi chắn nan tre tô
đất sét. Hai tháng sau, trước mặt hội trường đông người ngồi im lặng để đợi
nghe kiểm điểm, Lê Lô vẫn chắc giọng: “Tôi không có điều gì phải học. Cũng
không có điều chi phải kiểm điểm.”
Để áp dụng một biện pháp xét ra là khôn ngoan, trại viên Lê Lô được chuyển
vào đội nhà bếp với điều kiện: Không được ra khỏi phạm vi khu vực nhà giam
- Bởi ban giám thị trại đã hiểu rõ một điều: Hệ thống hàng rào trại, rừng
núi Hoàng Liên Sơn, thượng du Bắc Việt không ngăn nổi ý định sẽ trốn trại
của Lô đã hiện thực qua hành vi kiên trì không khuất phục. Những ngày bị
giữ chân trong đội nhà bếp không hoàn toàn vô ích: Lô được anh em cựu tù
nhân, những biệt kích quân hoạt động trên đất Bắc bị bắt giữ trước 1975 hết
lòng bảo vệ và bồi dưỡng, ông lấy lại sức lực sau hai tháng nằm hầm kiên
giam cấm cố. Hơn thế nữa, ông còn nhận được những chỉ dẫn cần thiết về địa
thế rừng núi miền Bắc, đường đi qua Lào mà các biệt kích quân vốn quen
thuộc từ thập niên 60. Và quan trọng nhất, ông có cơ hội lén lút tích trữ
muối và ngô, khoai, sắn khô. Cũng trong dịp nầy, chiếc điếu hút thuốc lào
được viên chỉ huy trưởng toán biệt kích (đang giữ nhiệm vụ trưởng toán nhà
bếp) trao tặng với lời kính trọng: “Ông thầy rửa mặt cho tụi em! Ông thầy
rửa mặt cho cả quân đội để chúng nó không thể coi thường anh em mình.” Lê
Lô nhận ống điếu, hút hơi mở đầu xong trả lại: “Cám ơn anh em, tôi giữ
không tiện. Sau nầy sẽ hay, bây giờ không nên”. Viên trưởng toán biệt kích
dẫu không hiểu hết ý của Lô, song với phản ứng sắc xảo của người quen trận
chiến bí mật, đơn độc, anh nhận lại chiếc điếu với lời cẩn mật: “Khi nào
ông thầy muốn thì em đưa lại. Bây giờ em giữ cho ông thầy.”
Một tháng sau, Lô vượt trại với bốn người bạn chiến đấu, hai trung tá, Khôi
và Bằng; hai thiếu tá Hạnh và Thức (mà mỗi người lại là một câu chuyện kể
khác). Vụ vượt ngục rúng động toàn bộ hệ thống trại tù miền Tây-Bắc và đã
minh chứng: Người lính quân lực miền Nam có đủ ý chí cao hơn những đỉnh núi
hiểm nghèo ẩn trong mây, vùng rừng nguyên thủy chưa hề có dấu chân người của
hệ thống Hoàng Liên Sơn trùng trùng cao ngất từ Vân Nam đổ xuống. Người
lính miền Nam có năng lực vượt qua nỗi đọa đày, hoàn cảnh lăng nhục thậm tệ
được thực hiện một cách có hệ thống qua phân công những viên sĩ quan cấp tá
vào đội trồng rau xanh mà không có một vật dụng canh tác nào ngoài hai bàn
tay trần với những thúng phân người – Phân người được gọi bằng một danh từ
chính xác – Phân Bắc.
Những người tù sống
trong mối phấn khởi hãnh diện âm thầm ngày mỗi lên cao, khi qua hơn một
tuần, ban giám thị trại, bộ đội an ninh canh gác dẫu đã phân công lùng sục
khắp toàn vùng, đường lên Sơn La, Nghĩa Lộ, xuôi về đồng bằng, vẫn không
tìm ra dấu tích toán vượt thoát. Nhưng đến tuần thứ hai, đám cán bộ, và vệ
binh trại như được uống chất lên men cực mạnh. Bắt được chúng nó rồi! Bắt
được chúng nó rồi! Những viên đạn súng tay bắn liên hồi trong lũng núi;
kẻng trại đánh dồn; tập thể tù được lệnh bỏ bãi lao động, khẩn cấp tập
trung vào hội trường chứng kiến cảnh nhục hình năm thân con người bị đánh
dập bởi hai-mươi lăm cây nứa do một trung đội lính thay phiên trừng trị.
Thân nứa đập vào thân người đến độ vỡ toang, bẹp dúm. Viên trưởng trại chắc
giọng thách thức: “Các anh trông đó làm gương. Tôi đố các anh trốn được tai
mắt nhân dân!” Ông ta nói thật, bởi toàn thể dân chúng trong vùng kể từ
ngày năm người vượt trại đã ra đồng, vào rừng với cuộn giây thừng và ống tù
và, vì họ được hứa hẹn: “Nếu bắt được năm người tù sẽ được miễn thuế nông
nghiệp năm năm, thưởng năm mươi cân thóc, và năm lít nước có vị mặn gọi là
nước mắm!” Tổâng cộng số lượng hiện vật thưởng nếu tính ra tiền Mỹ không
vượt quá vài đô-la lúc ấy hay thời giá hôm nay, đầu thế kỷ 21. Năm thân
người, đúng ra năm chiếc thây bị kéo lê vào phòng kỹ luật, nay được khoét
sâu trong sườn núi đợi ngày ra cột xử bắn. Nhưng sau vài tuần giam giữ, có
đêm, toàn trại đang yên lặng như khối mồ lớn thì nghe ra tiếng gọi đùa cợt
trao đổi từ những căn hầm kỹ luật.. Hê, hê.. Nhảy Dù! Nhảy Dù! Cố gắng! Cố
gắng!.. Đường trường xa ta quyết đi cho tới cùng.. Muôn đời Lục Quân Việt Nam!!
Buổi hành quyết được
tổ chức nơi sân tập họp chính của trại. Trại viên được lệnh nghỉ lao động,
thay đồng phục tù mới phát. Viên trưởng trại còn ra lệnh giết heo để ăn
mừng thành quả cải tạo giáo dục của trại – Lá cờ đầu của phong trào Học Tập
Tốt-Lao Động Tốt-Kỷ Luật Tốt của hệ thống bảy liên trại giam giữ toàn bộ
Ngụy quân - Ngụy quyền miền Nam tập trung nơi đất Bắc. Năm quan tài được
lệnh đóng khẩn cấp; trưởng trại còn có ý tốt “khoan hồng nhân đạo” nên cho
lệnh chuẩn bị những chén cơm gạo tẻ (không độn ngô, khoai, sắn), và những
cây hương để cắm lên quan tài sau khi hành quyết, trước khi đem chôn. Có
người nhắc nhở với ông ta: Theo lễ tục người miền Nam, phải có quả trứng
gối đầu đặt trên những chén cơm kia. Trại không nuôi gà, vịt nên không thể
kiếm đâu ra những quả trứng, trưởng trại bèn có sáng kiến táo bạo: Lấy
những quả bóng bàn thay thế quả trứng, chôn xong lấy bóng chơi lại! Sau khi
đã chuẩn bị đủ “nghi lễ” cho cuộc xử bắn, năm tử tội được đưa ra trước hội
trường để nghe tuyên án: “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Độc Lập-Tự
Do-Hạnh Phúc.. Xét bốn tiêu chuẩn của tập trung cải tạo, các tên Lê
Lô, Trần Đình Khôi, Phạm Công Bằng, Trần Quang Hạnh, Chế Đức Thảo can tội
ngụy quân.. Không thành tâm hối lỗi, học tập lao động cải tạo; không chấp
hành kỷ luật trại giam, âm mưu thực hiện trốn trại. Tuyên án: Tử Hình!”
Toán tử tội được dẫn
đến trước những chiếc cột. Các anh có muốn nói điều gì không? Trưởng trại
thoáng bối rối trước sự im lặng bình thản của năm người. Không một ai có
dấu hiệu sợ hãi. Không có gì? Lô thay mặt các bạn trả lời (Bởi khi chấp
cung, Lô đã xác nhận ông là người trách nhiệm độc nhất tổ chức vụ trốn
trại). Nhưng đột nhiên, ông cười nhẹ.. Nếu cho hút điếu thuốc lào thì tốt
lắm! Trưởng trại trầm mặt nghĩ ngợi (không hiểu Lô có ẩn ý gì vì yêu cầu
quá nhỏ nhoi, bất ngờ) trước khi chấp thuận. Lô biết ý , giải thích: “Tôi
có cái điếu mới, gởi ở các anh BK (đọc là Bê-Ka, Biệt Kích), tôi muốn hút
cái điếu đó một lần chót!”
..Có đây! Có đây!
Thưa ban (Ban giám thị), chúng tôi hiện giữ cái điếu của anh Lô. Viên
trưởng toán biệt kích mau lẹ đứng dậy từ đám tù ngồi chật hội trường.
Chiếc điếu được đưa
tới, Lô cầm lấy ung dung. Mình chơi một điếu nghe mấy ông. Những người bạn
đưa mắt nhìn nhau. Hạnh nói nhỏ chán nản: Hút làm gì Lô? Thì cứ hút đi,
trước sau cũng chết! Lô ngồi xuống, cho thuốc vào nỏ điếu, châm cây đóm,
kéo sâu hơi thuốc, thở khói lên trời. Ông cười nhẹ, đứng dậy, trao điếu cho
các bạn.. Làm một bi đi! Trung Tá Lê Lô nhìn quanh hội trường, đến với mỗi
người tù, mặt ông không biến sắc.. Aáp Bắc, 1963; Pleime, 1965; Cầu An Hòa
Mậu Thân Huế, Tổng Công Kích đợt 2, Nghĩa Trang Người Pháp, Ngã Tư Bảy
Hiền, Sàigòn, 1968; Hạ Lào, Động Ông Đô, Chu Pao, La Vang, Quảng Trị, 1972;
Long Khánh, tháng 4, 1975.. Đoạn đường mười-hai năm một đời chiến đấu ông
đi qua không một lần yếu đuối. Vậy coi đây chỉ là trận chiến cuối, trận
không vũ khí, chỉ với những người bạn từng sống-chết, và những người bạn tù
ngồi im lặng dưới xa. Lê Lô thở hắt như lần trái đạn 57 ly bắn tung chiếc
chiến xa và thân hình ông trước Thánh Đường Đức Mẹ LaVang, nơi quê hương
Quảng Trị, chiều tháng 7, mùa Hè 1972. Ngày ấy, cũng nắng như hôm nay.
Nhưng nắng miền Nam ấm, vàng tươi, sáng rỡ hơn.
Có chiếc xe đổ nhanh
dưới lưng đồi, trước bộ chỉ huy trại. Bóng người chạy vội lên hội trường..
Dừng lại! Dừng lại!
Lô tỉnh lạnh bảo
Hạnh, Bằng, hai người bạn đứng gần. Cứ hút đi, đừng để ý làm gì.
Xe bỏ Tỉnh Lộ 152
nhập vào Xa Lộ 101, địa giới giữa Gilroy (thủ phủ tất cả sản phẩm tỏi của
Mỹ) và San José. Người bạn đồng hành chấm dứt câu chuyện: Tôi phải đưa cái
điếu tận tay ông ấy vì như vừa kể, nó cứu đến năm mạng người lận.
Ông khách im lặng,
gật đầu đồng ý, nhưng thật ra có ý nghĩ khác: Có thể cán bộ cộng sản bày ra
vụ xử bắn để hù dọa mà thôi. Bởi họ vốn rất tinh xảo dàn dựng nên nhiều “biến
cố để đánh lạc cả lịch sử, lừa được toàn thế giới”, chứ ăn nhằm gì vài trăm
anh tù khổ đã bó tay hàng phục.
Điều đáng nói là
cách hút điếu thuốc trước cái chết của Sông Lô.
Cali, tháng 7, 2005.
Mạch Sống Số 62 -
09/07
Posted on Thursday,
August 16 @ 15:28:37 EDT by ngochuynh
|
No comments:
Post a Comment