Saturday, April 30, 2022

PHẢI CHĂNG TẤT CẢ HỌ ĐỀU MẤT TRÍ? (Bernd Ulrich / Die Zeit) _Chiến tranh Ukraine

 

ừ bốn phương, tung ra khắp bốn phương"

Friday, 29 April 2022

PHẢI CHĂNG TẤT CẢ HỌ ĐỀU MẤT TRÍ? (Bernd Ulrich / Die Zeit)

 

 

 

Phải chăng tất cả họ đều mất trí?   

Tác giả: Bernd Ulrich

Phạm Hồng-Lam dịch

Đàn Chim Việt      27/04/2022

https://www.danchimviet.info/phai-chang-tat-ca-ho-deu-mat-tri/04/2022/26042/

 

https://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2022/04/image001-696x391.png

Chiến tranh Ukraine

 

Nước Đức không thể làm được những gì cần phải làm để giúp Ukraine chống lại cuộc xâm lăng của Nga. Đó là hậu quả của một chính sách của các chính quyền Đức trước đây vốn lấy tình cảm đạo đức (Pathos) và chủ trương duy lợi nhuận làm nền tảng.

 

Ta có thể khắc phục được một quá khứ, khi quá khứ đó còn nằm trong hiện tại? Có lẽ không thể, nhưng mà vẫn phải làm – bởi quá nhiều đau thương đang xẩy ra trước mắt và hãy còn rất nhiều chuyện phải giải quyết. Và rồi còn có một câu hỏi quyết định hơn: Ta có thể tin được rằng, những kẻ trước đây đã làm hỏng mọi chuyện hôm nay và mai đây lại có thể nói hoặc làm được những điều đúng đắn?

 

Ở đây chúng ta đang bàn về chính sách đối với Nga của nước Đức, và như vậy là bàn về sự nhục nhã ghê gớm của người Đức. Từ hai tháng nay Nga đang tiến hành một cuộc chiến tiêu diệt ở Ukraine với những tội ác chiến tranh như hãm hiếp, bắn giết, xua đuổi và hãm đói người dân. Và nước Đức, một trong những quốc gia giàu nhất thế giới và là quốc gia mạnh nhất trong Liên Âu (EU), đã bất động trước những gì mình cần phải làm. Đất nước này không thể ngưng việc tiếp tục cung cấp cho đế độ Nga mỗi ngày 200 triệu âu kim qua việc nhập dầu, than và khí đốt. Và nó cũng không thể cung cấp đủ khí giới cho Ukraine, để họ tự chiến đấu cứu lấy sinh mạng dân tộc họ. Vì, như nhà cầm quyền Đức nói, quân đội Đức được vũ trang quá thiếu; nếu họ phải cho đi vài chiếc xe tăng Leopard dư thừa thì khả năng quốc phòng của Đức sẽ lâm nguy; vì thế phải giữ lại bất cứ bánh xe sắt nào còn chạy được.

 

Thật vô cùng xấu hổ. Và người ta quay ra truy tìm kẻ có tội.

 

Và những kẻ có tội? Họ lại đang tìm lối thoát cho mình. Hết người này tới người kia biện bạch, chẳng hạn, là Nord Stream 2 quả là một sai lầm. Nhưng ở đây phải nói ngay: Một sai lầm cứ phạm hết năm này tới năm khác, một sai lầm được quốc tế và quốc nội không ngừng cảnh báo, một sai lầm người ta cứ kiên trì ỉ vào quyền lực để sai phạm hẳn chẳng phải là một sai lầm. Mà đó là hậu quả đương nhiên của một chính sách đối với nước Nga vốn sai tự nền tảng.

 

Người ta cũng nói, là đã chẳng ai biết được, Putin lại có thể bước xa như thế. Điều này dĩ nhiên sai, vì Ukraine và tình báo của Mĩ đã biết. Và ngay cả khi tính đến chuyện bất ngờ để cho rằng, nếu không có Corona khiến cho điện Cẩm-linh nổi điên lên, thì hẳn Putin đã không tấn công – mà cho dù như thế, thì vẫn không ai hiểu được, tại sao Frank-Walter Steinmeier, Sigmar Gabriel, Olaf Scholz, Wolgang Kubicki và ngay cả Angela Merkel đã hành động như thể cuộc tấn công của Nga là điều không thể nào xẩy ra đượcĐấy là lí do duy nhất, để biện minh cho sự sao lãng, đến độ phải nói là cố tình sao lãng, việc chuẩn bị xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền Tự Do của nước Đức: phát triển các năng lượng tái tạo, xây dựng các trạm tiếp chuyển khí lỏng và các trung tâm trữ khí đốt quốc gia, đa nguyên hoá nguồn nhập khí đốt, trang bị đầy đủ cho quân đội.

 

Họ đã không làm những điều đó. Và vì sự sao lãng này nước Đức giờ đây không thể thi hành được bổn phận của một quốc gia dân chủ, khi nền an ninh và tự do của họ đang được một quốc gia khác đổ xương máu ra để bảo vệ cho họ tại Dnipro. Đối với Ukraine cuộc chiến đấu này lại càng vô vàn khó khăn. Và người Đức cũng không tránh được những chấn thương tinh thần đổ lên đầu họ – mỗi ngày. Là vì trong khi các chính quyền trước đây gia tăng sự lệ thuộc năng lượng vào Nga, thì chính quyền mới giờ đây lại nói: Nhân dân ơi, vì nhân dân quá lệ thuộc, nên chúng tôi không thề tẩy chay năng lượng ngay một lúc được; nhân dân chắc là không chịu đựng nổi; chúng tôi biết, nhân dân không phải là những anh hùng! Quả là tốt, khi hiểu được chính quyền nghĩ gì về người dân của mình.

 

Thật may mắn cho những nhà chính trị có liên hệ, vì một số tố cáo đổ trên họ xem ra hơi quá và đúng là có cường điệu. Như những lời của Đại Sứ Ukraine viết trên bút khoản Twitter của ông gởi cho cựu ngoại trưởng Đức Sigmar Gabriel (vì Gabriel viết bài bảo vệ cho tổng thống Steinmeier, cho rằng Đại Sứ Ukraine đã có í xấu khi đả kích Tổng Thống Đức): „Chính Ông và chính sách thân Putin lâu năm của các đồng chí trong đảng SPD của ông mới có í xấu. Nó đã dẫn tới cuộc chiến tiêu diệt của Nga đối với quốc gia Ukraine. Điểm này sẽ còn phải làm rõ. Đáng xấu hổ là Ông.“ Điều khẳng định, F.W. Steinmeier và S. Gabriel – chứ không phải Putin – đã „dẫn tới cuộc chiến“ đã làm mờ đi sự khác biệt giữa hành động và sự sơ sót, giữa những sai lầm nghiêm trọng với sự cố í gây chết người.

 

Chúng tôi đã lầm „như bao người khác cũng đã lầm“

 

Cả lập luận cho rằng, việc Đức và Pháp năm 2008 không chấp nhận để Ukraine và Georgien gia nhập Nato là sai lầm, cũng đượm chất phỏng đoán. Chưa chừng điều đó có thể lại tạo ra sự leo thang sớm hơn. Bà Merkel, vốn vẫn im tiếng khi càng ngày người ta càng nói đến những hậu quả của thời cầm quyền của bà, đã nhanh chóng lên tiếng: Tôi vẫn bảo lưu quyết định thời đó của tôi. Cả sự chỉ trích của chính quyền Ukraine về thoả ước Minsk, nếu suy cho kĩ, cũng không vững. S. Gabriel, một trong những người trách nhiệm về cái thoả ước trớ trêu đó, đã biết cách phản biện bằng một bài trên tờ Spiegel. Nhưng ở đây Gabriel đã chạy trốn vào trong những chi tiết điều khoản của thoả ước, để che đậy vai trò của mình trong chính sách đầy thảm hoạ của Đức đối với Nga.

 

Những chỉ trích thái quá đã giúp cho những người có trách nhiệm về chính sách sai lầm của Đức đối với Nga có được cơ hội tung ra hoàng loạt lí lẽ biện minh, khiến người nghe hay đọc rốt cuộc chẳng biết đâu là phải, đâu là trái, đâu là đông, đâu là tây nữa: Người ta dùng những chỉ trích thái quá để né tránh; người ta tìm một điểm ít quan trọng nào trong đó để thú nhận sơ sót của mình; người ta rốt cuộc cũng hô hoán: thì chúng tôi cũng đã lầm „như bao người khác“. Điều này có nghĩa: những kẻ có quyền lực len lỏi ẩn mình vào trong quần chúng.

 

Người đặc biệt biết sử dụng kĩ thuật đánh trống lãng là vị Bộ Trưởng phủ thủ tướng trước đây, với hai lần giữ chức Bộ Trưởng ngoại giao và giờ đây là đương kim Tổng Thống. Trong một bài phỏng vấn trên tờ Spiegel ông nói: „Tôi là một trong những người suốt cuộc đời chính trị cố gắng làm sao để chiến tranh không tái diễn trên đất Âu châu. Điều này đã không thành công. Nhưng như vậy phải chăng mục tiêu của tôi sai? Phải chăng nỗ lực của tôi là sai? Đây là điểm mà tôi, mà chúng ta giờ đây cần phải luận bàn.“ Điểm muốn luận bàn của Steinmeier là điều dễ hiểu, vì ai dám cho rằng, dấn thân cho hoà bình là chuyện sai quấy! Steinmeier vẫn luôn ở trong thế tự phụ của mình, vẫn tự coi mình là người chỉ muốn điều tốt nhất cho mọi người.

 

Nhưng không, thưa Tổng Thống, cuộc luận bàn cấp thiết lúc này là một chủ đề khác: Tại sao những người cầm quyền thời đó đã để cho khả năng bảo vệ Tự Do của chúng ta trước Nga bị què quặt đến như thế? Không ai không bĩu môi, khi nhìn vào chuỗi diễn tiến lịch sử này:

 

Tháng Tư 2008, vì sự chống đối của thủ tướng Merkel, Nato đã tạm thời không cho Ukraine và Georgien gia nhập liên minh này. Tháng Tám 2008, để biết ơn, Nga đã tấn công Georgien.

 

Tháng Hai 2014 tổng thống Nga Putin chiếm đóng Crimea và tạo nên tình trạng chiến tranh dai dẳng ở Đông Ukraine.

 

2015 bộ trưởng kinh tế Sigmar Gabriel cho phép đại công ti năng lượng Gazprom của Nga mua hệ thống các bồn trữ khí đốt của quốc gia Đức.

 

Tháng Chín 2015, với sự hỗ trợ của chính quyền Đức, các công ti năng lượng âu châu quyết định xây dựng đường ống dẫn khí đốt thứ 2, Nord Stream 2, chỉ với một mục tiêu địa lí chính trị duy nhất: tránh đi qua Ukraine.

 

2016 quân đội Nga và Syria dội bom thành phố Aleppo, phạm tội ác chiến tranh, sử dụng những loại vũ khí quốc tế cấm.

 

Từ 2015 tới 2022 chính quyền Đức gia tăng sự lệ thuộc khí đốt vào Nga từ 45% lên 55%.


2021 là thời gian tệ hại nhất kể từ năm 2000 trong việc xây dựng các hệ thống năng lượng gió tại Đức.

 

Tháng Chín 2021, khi mối hàn cuối cùng của Nord Stream 2 vừa xong, chính phủ Đức liền thúc đẩy phải gấp rút đưa đường ống vào sử dụng.

 

Cuối 2021 quân đội Nga tiến tới biên giới Ukraina; ngày 17 tháng 12 thủ tưởng Olaf Scholz một lần nữa lại tuyên bố Nord Stream 2 chỉ là „một dự án kinh tế tư nhân“.

 

Khi những sự việc trên diễn ra, đảng liên minh cầm quyền CDU (Liên Minh Dân Chủ Ki-tô Giáo) dùng Bộ Quốc Phòng làm nơi thử nghiệm các ứng viên thủ tướng (zu Guttenberg, von der Leyen, Kramp-Karrenbauer), trong khi đó quân đội chẳng có được một cải tiến nào cả.

 

Nói một cách ngắn gọn và nghiệt ngã: Putin càng hành động để chứng tỏ sự quyết tâm và í định trâng tráo của mình, Đức càng có chính sách cực lực gia tăng sự lệ thuộc của mình vào ông ta. Putin càng tỏ ra hiếu chiến bao nhiêu, Đức càng co cụm bất lực bấy nhiêu. Nhìn những diễn tiến đó, không ai không tự hỏi: Tại sao những chính trị gia trung phái có hiểu biết như Steinmeier, Gabriel, Merkel hay Scholz lại đẩy đân tộc Đức vào thế phải chọn giữa hoặc là anh hùng hoặc là hèn nhát? Phải chăng các chính quyền liên bang vừa qua đều điên rồ về mặt an ninh và năng lượng?

 

Trả lời: Không, họ không điên. Những ai thời đó có dịp nói chuyện với họ, người đó tất biết, họ có một quan điểm khác về Putin và Nord Stream 2, chứ không phải họ là những người mất trí. Vậy thì cần phải có một giải thích cho câu hỏi: Tại sao những kẻ trí tuệ và nói chung có í thức trách nhiệm như họ lại có thể hành động thiếu trách nhiệm và vô lí như thế ít nhất trong suốt tám năm dài?

 

Ở đây phải nói ngay SPD (Dân Chủ Xã Hội) là đảng đã tiến hành một chính sách sai lầm hơn hẳn mọi chính đảng khác. Đây là đảng suốt dọc dài thời gian không thể giáo hoá được, hay nói ngược lại: cứ muốn dạy dỗ kẻ khác. Có hai mảng lịch sử vốn bị hiểu lầm, được sử dụng vụng về nhưng lại được trình bày một cách hăng say, đã làm cho những người Dân Chủ Xã Hội có cái nhìn sai về thực tại nước Nga. Một mảng là quá khứ nước Đức. Mảng này buộc người Đức phải có trách nhiệm đặc biệt với một nước Nga vốn bị họ tấn công và tàn phá; nó khiến cho người Đức ít cảm thấy có trách nhiệm với những quốc gia tới lượt bị Nga tấn công hoặc với những quốc gia khác, như Ukraine, vốn cũng đã bị người Đức tàn phá. Vì thế lí lẽ lịch sử (do SPD đưa ra) trong một cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine có thể hoàn toàn chẳng có tác dụng nào cả. Mảng khác là chính sách hoà hoãn, qua đó Willy Brandt và Egon Bahr cách đây nửa thế kỉ đã tạo được những đổi thay khá lớn trong khối Đông Âu trước đây. Nhưng mảng này không còn là mô mẫu cho chính sách đối với Nga nữa, vì các điều kiện ngày nay đã hoàn toàn đổi khác. Dù vậy nó vẫn được SPD sử dụng, để tô vẽ cho Putin về mặt lịch sử.

 

Ai không biết lịch sử, người đó sẽ lặp lại lỗi lầm của lịch sử. Ai không còn nhìn ra hiện tại của lịch sử rành rành, người đó có lẽ sẽ đi theo SPD. Có một điều có lẽ khiến cho những người Dân Chũ Xã Hội, những người như Martin Schulz và F-W. Steinmeier, Sigmar Gabriel và Matthias Platzeck và tất cả những ai thích nói về trách nhiệm lịch sử, phải bối rối: đó là gánh nặng trách nhiệm đối với Nga luôn đi kèm với lợi nhuận béo và khí đốt rẻ. Tình cảm đạo đức và lợi nhuận, lương tâm và chuyện lời lãi, cả hai gần như là một. Nước Đức đã làm gì, để có được tình trạng hai bên cùng có lợi này? Nhịp cầu nối liền giữa những tội ác lớn nhất của loài người và vị trí quán quân trong việc xuất cảng là một đường ống dẫn khí đốt dưới đất. Không chỉ SPD thích chuyện này mà thôi. Nhưng, vấn đề là một dân tộc phải tự coi mình là chính đáng đến mức nào, khi họ không để mình bị kích thích bởi thực tế lịch sử mơn trớn đãi ngộ họ đến như vậy?

 

Cũng như nơi khủng hoảng khí hậu, người ta không bàn vào chính vấn đề, mà cứ cãi cọ về sự thôi thúc của thời gian.

 

Phải công bằng nhìn nhận rằng, cuộc bán buôn lịch sử này – from pain to gain – cũng được các đảng khác đặt tay kí, dĩ nhiên trong đó có CSU (Liên Minh Xã Hội Ki-tô Giáo, đãng chị em với CDU), một phần CDU và FDP (Đảng Dân Chủ Tự Do) và cũng đừng quên – có cả phía kinh tế Đức. Một trong những người Đức đầu tiên tới trình diện Nga, sau khi cuộc chiến 2014 ở Ukraine nổ ra, là Joe Kaiser, lúc đó là xếp của tập đoàn Siemens. Như vậy SPD chẳng bao giờ đứng một mình, mà trái lại: Cái thượng tầng kiến trúc về đạo đức và lịch sử do SPD đưa ra cũng rất thích hợp cho các chính đảng khác. Giờ đây họ có thể yên tâm hơn để làm ăn, bởi đây không chỉ là quyền lợi đang khinh bỉ (có được khí đốt với giá rẻ), mà trong đó có cả tâm thức tội lỗi, sự cảm thông và hoà giải giữa các dân tộc. Như vậy lợi nhuận và lương tâm trở thành một liên minh không co gì đánh đổ được, dù nó là cái liên minh chăng thánh thiêng gì. Và cuối cùng còn có sự hiện diện kín đáo của sự khôn ngoan chính trị (Staatsräson): Chỉ với tư cách là một quốc gia thành công vượt bậc với của cải ngập tràn, thì Đức mới là một quốc gia dân sự. Vâng, gần như toàn bộ giới ưu tuyển ở Đức đều nghĩ như thế.

 

Cái giá của chính sách cảm xúc và lợi nhuận đó giờ đây phải trả. Và ta tự hỏi, có nên tin vào những người chủ trương chính sách hiện nay đối với Nga không, những người vốn đui mù trước thực tại quá lâu và vẫn hiên ngang cho mình là những kẻ thông làu về lịch sử? Ở đây ta lại gặp những người Dân Chủ Xã Hội. Họ muốn vỗ tay tán đồng những quyết định nền tảng anh hùng vừa rồi của Đảng, nhưng lại cố tình không màng chi tới yếu tố một mất một còn của Ukraina: thời gian. Cũng như nơi khủng hoảng khí hậu, người ta chẳng bàn vào chính vấn đề, mà cứ tranh cãi về sự hối thúc của thời gian. Nhưng cả hai đề tài này đều có một mẫu số chung: lần lữa có nghĩa là phủ nhận. Chính sách „sang trang“ (Zeitenwende) có thể khó trở thành dấu chỉ của một tiến trình học hỏi thật sự, phần là vì số tiền 100 tỉ âu kim chẳng đưa tới một tác dụng nào cả ngay lúc này, và việc chuyển giao vũ khí cho Ukraine thì người ta chẳng nói gì cả về việc có chuyển giao hay không, mà cứ loay hoay với câu hỏi Bao nhiêu, Cái gì và nhất là Bao giờ, Sớm hay muộn.

 

Cuối cùng còn có một lối lí luận nền tảng trong chính sách của SPD đối với Nga, vốn không một thực tế nào có thể phủ nhận được nó. Và người ta lo là nó sẽ lại được tung ra, khi Putin tạm nghỉ việc bắn giết: „Không thể có hoà bình ở Âu châu/ Siri/ Afghanistan/ hay bất cứ nơi đâu, nếu chống lại Nga; chỉ có hoà bình khi cùng với Nga mà thôi.“ Và Putin càng tàn độc bao nhiêu, lời tuyên tín đó càng đúng bấy nhiêu.

 

Có thể lập luận của những kẻ cho rằng, tốt hơn không nên trao xe tăng hay trao thật ít cho Ukraine, cùng lúc trước mắt cứ tiếp tục đổ tiền cho Moskau, cũng đúng. Là vì rốt cuộc ngay cả lịch sử về chính sách đối với Nga cũng không đưa ra được những hướng dẫn rõ ràng cho hiện tại và lúc này. Không phải chỉ vì Nord Stream 2 là chuyện điên rồ, nên việc trao xe tăng hạng nặng phải là lựa chọn đúng. Nhưng để có thể tin vào những lí chứng cụ thể của người Dân Chủ Xã Hội và của tất cả những kẻ cố tình trì hoãn khác, họ phải xử lí các di sản í hệ của mình một cách khả dĩ thuyết phục đi đã. Nhưng điều này tiếc rằng đã không xẩy ra. Và nếu giờ đây ta có một vị Tổng Thống liên bang – sẵn sàng đối mặt với cuộc tranh luận này với mọi rủi ro của riêng ông, thì quả  là tuyệt.

 

Thursday, April 28, 2022

CẢ TIN VÀ SỰ TRÁO TRỞ (Chu Mộng Long)

 

Thursday, 28 April 2022

CẢ TIN VÀ SỰ TRÁO TRỞ (Chu Mộng Long)

 

 

 

https://www.facebook.com/long.chumong.16/posts/818383105787183

 

Thiếu tướng Lê Văn Cương có phần đúng khi nói thằng hề 43 tuổi Zelensky làm sao có thể chống được một ông già KGB trên 70 như Putin?

 

Sẽ đúng hơn, nếu nói 30 năm trước, có một thằng hề khác, Tổng thống Leonid Kravchuk, đem cả vận mệnh của Ukraine đặt cược vào bàn đàm phán với Nga và Mỹ về giải giáp vũ khí hạt nhân. Leonid Kravchuk nói: “chúng ta phải loại bỏ những vũ khí hạt nhân này. Đây là quan điểm của tôi và tôi sẽ không đi chệch hướng“.

 

Mặc dù bị làn sóng phản đối mạnh mẽ từ nhân dân và Quốc hội Ukraine, kể cả sự chống trả bằng thái độ từ chức của Bộ trưởng quốc phòng Kostyantyn Morozov, nhưng tên hề Leonid Kravchuk vẫn quyết theo định hướng xỏ mũi từ phía Nga.

 

Thảm kịch chiến tranh hôm nay mà Zenlensky cùng nhân dân Ukraine gánh chịu là do thằng hề Leonid Kravchuk. Tất nhiên, cũng phải quy trách nhiệm một phần ở tên ngốc cả tin khác là Tổng thống Mỹ Bill Clinton, kể cả sự ngây ngô của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc lúc bấy giờ.

 

https://vcdn-vnexpress.vnecdn.net/2022/03/02/moskva-1994-afp-7604-1646197371.jpg

Tổng thống Mỹ Bill Clinton, tổng thống Nga Boris Yeltsin và tổng thống Ukraine Leonid Kravchuk (từ trái qua phải) tại buổi lý Tuyên bố ba bên ở Moskva, Nga hồi tháng 1/1994. Ảnh: AFP.

 

Bản ghi nhớ, hay cam kết Budapest 1994, gồm Mỹ, Nga, Ukraine, Anh đồng ký tên ghi rõ:

 

Tái khẳng định nghĩa vụ của các nước kiềm chế bất kỳ mối đe dọa hoặc động thái sử dụng vũ lực chống lại toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của Ukraine“. Các bên cũng cam kết “kiềm chế hành động áp bức kinh tế” đối với Ukraine và “tìm kiếm hành động lập tức của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc để hỗ trợ cho Ukraine” trong trường hợp có “hành động tấn công” vào nước này.

 

Kể từ khi ký Bản ghi nhớ Budapest, Ukraine đã đáp ứng các nghĩa vụ bằng cách chuyển giao kho vũ khí hạt nhân lớn thứ ba thế giới.

 

Nhưng sự thực là, năm 2014, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã xé bỏ Bản ghi nhớ Budapest khi cướp bán đảo Crimea, theo một bài viết trên trên WSJ là Ukraine đã bị phản bội trắng trợn. Đúng như bài viết, ngày 4/3/2014, Tổng thống Nga Vladimir Putin quẹt mồm tuyên bố lạnh lùng rằng “một nhà nước mới đã nổi lên, nhưng chúng tôi không ký bất kỳ văn bản bắt buộc nào với nhà nước này“.

 

Ông già KGB trên 70 mà nhóm người Việt ủng hộ xâm lược, ủng hộ giết người đang tôn sùng như thần tượng đấy! Ông này biến Tổng thống Mỹ, Thủ tướng Anh và cả Đại hôi đồng Liên Hiệp quốc thành tên hề luôn!

 

Việc Mỹ, Anh, NATO và Đại hội đồng Liên Hiệp quốc hiện nay bao vây, cấm vận kinh tế Nga, cung cấp vũ khí cho Ukraine chống Nga là coi như đã sửa sai và thực hiện phần nào cam kết Budapest. Tôi cho rằng, nếu Hội đồng Bảo an chấp nhận cho Mỹ cung cấp vũ khí hạt nhân cho Ukraine theo cam kết đảm bảo an ninh cho Ukraine, cũng không có gì là quá đáng!

 

Việc Tổng thống Zelensky kêu gọi viện trợ vũ khí từ Mỹ và phương Tây, kêu gọi cấm vận Nga, kể cả kiểm tra vũ khí hạt nhân của Nga là yêu cầu chính đáng. Các bên buộc phải thực hiện cam kết Budapest, nếu không thì là tráo trở.

 

Thử hình dung, nếu Ukraine không bị lừa vào 30 năm trước, vẫn sở hữu vũ khí hạt nhân, liệu Putin có dám ngang ngược cướp, giết, hiếp như bây giờ không?

 

Chu Mộng Long

Sunday, April 10, 2022

Ukraine: Xung đột ở ngã tư Châu Âu và Nga

Ukraine: Xung đột ở ngã tư Châu Âu và Nga   

Jonathan Masters

Trần Giao Thủy dịch thuật

POSTED ON APRIL 9, 2022

https://dcvonline.net/2022/04/09/ukraine-xung-dot-o-nga-tu-chau-au-va-nga/

 

Khuynh hướng theo phương Tây của Ukraine kể từ khi giành độc lập đã bị Nga kéo lại một cách dữ dội, gần đây nhất là cuộc xâm lăng năm 2022 của Putin.

 

https://cdn.cfr.org/sites/default/files/styles/immersive_image_3_2_desktop_2x/public/image/2020/02/Ukraine.jpg

Một người biểu tình ngồi trên một đài kỷ niệm ở Kyiv trong cuộc đụng độ với cảnh sát chống bạo động vào tháng 2 năm 2014. Louisa Gouliamaki/AFP/Getty

 

Tóm lược

 

·         Là một nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, Ukraine có mối quan hệ mật thiết về văn hóa, kinh tế và chính trị với Nga.

·          

·         Năm 2014, Nga sáp nhập Crimea, một phần của Ukraine, khi Moscow nhận thấy nó ngày càng trở nên liên kết chặt chẽ hơn với các thể chế phương Tây, chính là EU và NATO.

·          

·         Cuộc xâm lăng vô cớ của Nga vào Ukraine năm 2022 được một số chuyên gia coi là một phần của sự cạnh tranh địa chính trị mới giữa các cường quốc.

 

Dẫn nhập

 

Ukraine từ lâu đã đóng một vai trò quan trọng, nhưng đôi khi bị bỏ qua, trong trật tự an ninh toàn cầu. Hiện nay, quốc gia này đang ở trên chiến tuyến của một cuộc cạnh tranh cường quốc mới mà nhiều nhà phân tích cho rằng sẽ chi phối các mối quan hệ quốc tế trong những thập niên tới.

 

Cuộc xâm lăng toàn diện của Nga vào Ukraine vào năm 2022 đã đánh dấu sự leo thang bất ngờ của cuộc xung đột kéo dài 8 năm và là một bước ngoặt lịch sử đối với nên an ninh châu Âu. Với việc mở rộng viện trợ của phương Tây, Ukraine đã xoay xở để gây trở ngại lớn cho cuộc tấn công của Nga, nhưng nhiều thành phố của nước này đã bị băm nát và một phần tư dân Ukraine hiện là người tị nạn hoặc đã phải di tản. Vẫn chưa rõ liệu một nghị quyết ngoại giao có thể có hay không và bằng cách nào. Vị trí của Ukraine trên thế giới, gồm cả sự liên kết trong tương lai với các thể chế như Liên minh châu Âu (EU) và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), luôn nằm trong sự cân bằng.

 

Tại sao Ukraine lại là một điểm nóng về địa chính trị?

 

Ukraine là một cột trụ của Liên Xô cũ, đối thủ của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh. Chỉ sau Nga, nước này đông dân và hùng mạnh thứ hai trong số mười lăm nước cộng hòa thuộc Liên Xô, nơi tập trung phần lớn cơ sở sản xuất nông nghiệp, kỹ nghệ quốc phòng và quân sự của Liên bang, gồm cả Hạm đội Biển Đen và một số kho vũ khí hạch tâm. Ukraine rất quan trọng đối với Liên bang Xô viết đến nỗi quyết định cắt đứt quan hệ vào năm 1991 được coi là một cuộc đảo chính đối với siêu cường đang ốm yếu.

 

Trong ba chục năm độc lập, Ukraine đã tìm cách tạo dựng con đường riêng như một quốc gia có chủ quyền trong khi tìm cách liên kết chặt chẽ hơn với các thể chế phương Tây, kể cả EU và NATO. Tuy nhiên, Kyiv đã phải vật lộn để cân bằng những mối quan hệ đối ngoại và giảm thiểu những chia rẽ sâu sắc trong nội bộ. Cộng đồng thiên dân tộc chủ nghĩa hơn, nói tiếng Ukraina ở vùng phía tây nói chung ủng hộ hội nhập nhiều hơn với châu Âu, trong khi một cộng đồng phần lớn nói tiếng Nga ở phía đông ủng hộ mối quan hệ chặt chẽ hơn với Nga.

 

https://dcvonline.net/wp-content/uploads/2022/04/cfr1-893x1024.jpg

Bản Đồ Ukraine

Nguồn: CIA World Factbook; Ngân hàng thế giới.

 

UKRAINE

·         Diện tích: 603.550 km vuông (quốc gia lớn nhất ở Châu Âu, ngoại trừ Nga)

·         Dân số (2021): 44 triệu

·         Tôn giáo: Cơ đốc giáo chính thống, Công giáo, Tin lành

·         Ngôn ngữ chính: Tiếng Ukraina (chính thức), tiếng Nga

·         Hình thức chính phủ: Cộng hòa, không hẳn theo tổng thống chế

·         GDP (2020): 155,5 tỷ đô la

·         GDP/đầu người (2020): $ 3,725

 

Ukraine đã trở thành một chiến trường vào năm 2014 khi Nga sáp nhập Crimea và bắt đầu trang bị vũ khí và tiếp tay cho quân ly khai ở vùng Donbas ở phía đông nam của Ukraine. Việc Nga chiếm Crimea là lần đầu tiên một quốc gia châu Âu sáp nhập lãnh thổ của một quốc gia khác, kể từ Thế chiến thứ hai. Hơn 14 ngàn người đã chết trong cuộc giao tranh ở Donbas từ năm 2014 đến năm 2021, cuộc xung đột đẫm máu nhất ở châu Âu kể từ sau Chiến tranh Balkan những năm 1990. Đối với nhiều người trong giới phân tích, sự thù địch đánh dấu sự thay đổi rõ ràng trong môi trường an ninh toàn cầu từ thời kỳ đơn cực của sự thống trị của Hoa Kỳ được xác định bằng sự cạnh tranh mới giữa các cường quốc [PDF].

 

Vào tháng 2 năm 2022, Nga bắt tay vào một cuộc xâm lăng toàn diện vào Ukraine với mục đích lật đổ chính phủ liên kết với phương Tây của Volodymyr Zelenskyy.

 

Những lợi ích của Nga ở Ukraine là gì?

 

Nga có mối quan hệ mật thiết về văn hóa, kinh tế và chính trị với Ukraine, và về nhiều mặt, Ukraine là trung tâm của bản sắc và tầm nhìn của Nga trên thế giới.

 

Quan hệ gia đình. Nga và Ukraine có mối quan hệ gia đình bền chặt kéo dài hàng thế kỷ. Kyiv, thủ đô của Ukraine, đôi khi được coi là “mẹ của các thành phố Nga”, ngang hàng về ảnh hưởng văn hóa với Moscow và St. Petersburg. Chính tại Kyiv vào thế kỷ thứ tám và thứ chín, Cơ đốc giáo đã được đưa từ Byzantium đến với những dân tộc Slav. Và chính Cơ đốc giáo đã đóng vai trò là mỏ neo cho Kievan Rus, nhà nước Slav ban đầu mà từ đó người Nga, Ukraine và Belarussia hiện đại đều coi là nguồn gốc dòng dõi của họ.

 

Cộng đồng người Nga. Theo một cuộc điều tra dân số thực hiện vào năm 2001, khoảng tám triệu người sắc tộc Nga đang sống ở Ukraine vào năm đó, phần lớn ở phía nam và phía đông. Moscow tuyên bố có nhiệm vụ bảo vệ những người này như một cái cớ cho những hành động của Nga ở Crimea và Donbas vào năm 2014.

 

Hình ảnh siêu cường. Sau khi Liên Xô sụp đổ, nhiều chính khách Nga coi vụ ly hôn với Ukraine là một sai lầm của lịch sử và là mối đe dọa đối với vị thế cường quốc của Nga. Việc để mất quyền nắm giữ lâu dài đối với Ukraine và để nước này rơi vào quỹ đạo của phương Tây, được nhiều người coi là một đòn giáng mạnh vào uy tín quốc tế của Nga.

 

Crimea. Nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev đã chuyển Crimea từ Nga cho Ukraine vào năm 1954 để tăng cường “mối quan hệ anh em giữa các dân tộc Ukraine và Nga.” Tuy nhiên, kể từ khi Liên bang tan rã, nhiều người Nga theo chủ nghĩa dân tộc ở cả Nga và Crimea đều mong mỏi bán đảo trở lại Nga. Thành phố Sevastopol là nơi đóng quân của Hạm đội Biển Đen của Nga, lực lượng hàng hải thống trị trong khu vực.

 

Buôn bán. Nga từ lâu đã là đối tác thương mại lớn nhất của Ukraine, mặc dù mối liên kết này đã khô héo đáng kể trong những năm gần đây. Trung Hoa cuối cùng đã vượt qua Nga trong thương mại với Ukraine. Trước khi xâm lăng Crimea, Nga đã hy vọng kéo Ukraine vào thị trường duy nhất của họ, Liên minh Kinh tế Á-Âu (EAEU), ngày nay gồm có Armenia, Belarus, Kazakhstan và Kyrgyzstan.

 

Năng lượng. Nga đã dựa vào các đường ống của Ukraine để chuyển khí đốt của Nga cho các khách hàng ở Trung và Đông Âu trong nhiều chục năm và họ phải trả hàng tỷ đô la mỗi năm cho chi phí vận chuyển đến Kyiv. Dòng khí đốt của Nga qua Ukraine vẫn tiếp tục vào đầu năm 2022 bất chấp sự bùng nổ của các cuộc xung đột giữa hai nước. Nga đã có kế hoạch vận chuyển nhiều khí đốt hơn đến châu Âu qua đường ống Nord Stream 2 mới của họ, chạy dưới Biển Baltic tới Đức, nhưng Berlin đã ngăn chặn việc phê duyệt dự án theo quy định sau cuộc xâm lăng của Nga.

 

Ảnh hưởng chính trị. Nga luôn quan tâm đến việc duy trì ảnh hưởng chính trị của mình ở Ukraine và trên toàn Liên Xô cũ, đặc biệt là sau khi ứng cử viên tổng thống được ưa chuộng năm 2004, Viktor Yanukovych, đã thua một đối thủ thiên về đổi mới trong cuộc Cách mạng Cam. Cú sốc này đối với lợi ích của Nga ở Ukraine xảy ra sau một thất bại bầu cử tương tự đối với Điện Kremlin ở Georgia vào năm 2003, gọi là Cách mạng Hoa hồng, và tiếp theo là một cuộc cách mạng khác — Cách mạng hoa Tulip — ở Kyrgyzstan vào năm 2005.

 

Yanukovych sau đó trở thành tổng thống Ukraine, trong 2010, giữa lúc cử tri bất bình với chính phủ Cách mạng Cam.

 

Điều gì đã khiến Nga vào Crimea và Donbas vào năm 2014?

 

Chính mối quan hệ của Ukraine với EU đã khiến căng thẳng bùng phát với Nga trong giai đoạn 2013–14. Vào cuối năm 2013, Tổng thống Yanukovych, hành động dưới áp lực của những người ủng hộ ông ở Moscow, đã hủy bỏ kế hoạch chính thức hóa mối quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn với EU. Nga đồng thời ép Ukraine tham gia EAEU chưa thành lập. Nhiều người Ukraine coi quyết định của ông Yanukovych là sự phản bội của một chính phủ tham nhũng và bất tài, và nó đã gây ra các cuộc biểu tình trên toàn quốc được gọi là Euromaidan.

 

Putin đã xem sự xáo trộn của Euromaidan sau đó, khiến Yanukovych phải từ bỏ quyền lực, như một “cuộc đảo chính phát xít” do phương Tây hậu thuẫn gây nguy hiểm cho đa số người Nga ở Crimea. (Giới lãnh đạo phương Tây bác bỏ điều này là tuyên truyền vô căn cứ gợi nhớ đến thời kỳ Xô Viết.) Đáp lại, Putin đã ra lệnh mở cuộc xâm lăng bí mật vào Crimea mà sau đó ông biện minh là một chiến dịch giải cứu. Trong một bài phát biểu vào tháng 3 năm 2014 chính thức hóa việc sáp nhập Crimea, Putin nói, “Mọi thứ đều có giới hạn. Và với Ukraine, các đối tác phương Tây của chúng tôi đã vượt qua ranh giới.”  

 

Putin đã dùng một lý cớ tương tự để biện minh cho sự ủng hộ của ông đối với những người ly khai ở đông nam Ukraine, một khu vực khác có đông người sắc tộc Nga và những người nói tiếng Nga. Ông gọi khu vực này nổi tiếng với cái tên Novorossiya (Nước Nga Mới), một thuật ngữ có từ thời đế quốc Nga thế kỷ mười tám. Những kẻ khiêu chiến có vũ trang của Nga, gồm cả một số điệp viên thuộc các cơ quan an ninh Nga, được cho là đã đóng vai trò trung tâm trong việc khuấy động các phong trào ly khai chống Euromaidan trong khu vực thành một cuộc nổi dậy. Tuy nhiên, không giống như Crimea, Nga tiếp tục chính thức phủ nhận sự tham gia của họ vào cuộc xung đột Donbas cho đến khi nước này tiến hành cuộc xâm lăng vào Ukraine vào năm 2022.

 

Tại sao Nga tiến hành một cuộc xâm lăng toàn diện vào Ukraine vào năm 2022?

 

Một số chuyên viên trong giới phân tích phương Tây coi cuộc xâm lăng năm 2022 của Nga là đỉnh điểm của sự phẫn nộ ngày càng tăng của Điện Kremlin đối với sự bành trướng của NATO thời hậu Chiến tranh Lạnh sang vùng ảnh hưởng của Liên Xô cũ. Giới lãnh đạo Nga, kể cả Putin, đã cáo buộc rằng Hoa Kỳ và NATO đã nhiều lần vi phạm các cam kết mà họ đã đưa ra vào đầu những năm 1990 là không mở rộng liên minh sang khối Liên Xô cũ. Họ coi sự mở rộng của NATO trong thời kỳ hỗn loạn này đối với Nga là một sự áp đặt nhục nhã về điều mà họ không thể làm được ngoài việc quan sát.

 

https://dcvonline.net/wp-content/uploads/2022/04/cfr2-640x1024.jpg

Sự phát triển các thành viên của NATO.   Nguồn: NATO.

 

Thành viên sáng lập Năm 1949
Bỉ
Canada
Đan Mạch
Pháp
Iceland
Ý
Luxembourg
Hòa Lan
Na Uy
Portugal
Anh
Hoa Kỳ

 

Mở rộng sau Chiến tranh lạnh

1952: Hy Lạp, Turkey

1955: Tây Đức

1982: Tây Ban Nha

 

Bành trướng sau chiến tranh lạnh

1990: Nước Đức *

1999: Cộng hòa Czech, Hungary, Ba Lan

2004: Bulgary, Estonia, Latvia, Lithuania, Romania, Slovak, Slovenia,

2009: Albania, Croatia

2017: Montenegro

2020: Bắc Macedonia

 

Việc thống nhất nước Đức vào năm 1990 dẫn đến việc Đông Đức trước đây trở thành một phần của NATO. Bản đồ cho thấy Tây và Đông Đức.

 

Trong những tuần trước thềm hội nghị thượng đỉnh năm 2008 của NATO, Tổng thống Vladimir Putin đã cảnh cáo giới ngoại giao Hoa Kỳ đưa Ukraine vào liên minh “sẽ là một hành động thù địch đối với Nga.” Nhiều tháng sau, Nga gây chiến với Gruzia, dường như cho thấy Putin sẵn sàng dùng vũ lực để  bảo đảm lợi ích của đất nước của ông. (Một số trong giới quan sát độc lập đã quy lỗi cho Gruzia vì đã khơi mào cái gọi là Chiến tranh Tháng Tám nhưng lại trách Nga vì đã khiến những hành động thù địch leo thang).

 

Mặc dù không phải là thành viên, Ukraine đã phát triển quan hệ với NATO trong những năm trước cuộc xâm lăng 2022. Ukraine đã tổ chức các cuộc tập trận quân sự hàng năm với liên minh và vào năm 2020, Ukraine đã trở thành một trong sáu đối tác cơ hội nâng cao, một vị thế đặc biệt đối với các đồng minh không phải là thành viên thân cận nhất của khối. Hơn nữa, Kyiv khẳng định mục tiêu cuối cùng là trở thành thành viên NATO.

 

Trong những tuần trước cuộc xâm lăng, Nga đã đưa ra một số đòi hỏi quan trọng về an ninh đối với Hoa Kỳ và NATO, gồm việc họ ngừng mở rộng liên minh, phải có sự đồng ý của Nga đối với một số hoạt động của NATO và loại bỏ vũ khí hạch tâm của Hoa Kỳ ở Châu Âu. Giới lãnh đạo Liên minh trả lời rằng họ cởi mở với các chính sách ngoại giao mới nhưng không sẵn lòng thảo luận về việc đóng cửa NATO không nhận thành viên mới. Thomas Graham của CFR nói với Arms Control Today vào tháng 2 năm 2022 :

 

“Trong khi ở Hoa Kỳ, chúng ta nói về cuộc khủng hoảng Ukraine, theo quan điểm của Nga, đây là cuộc khủng hoảng trong kiến trúc an ninh châu Âu. Và vấn đề cơ bản mà họ muốn đàm phán là sửa đổi của kiến trúc an ninh châu Âu hiện nay thành một cái gì đó có lợi hơn cho lợi ích của Nga.”  (Thomas Graham)

https://cdn.cfr.org/sites/default/files/styles/card_expert_thumbnail_xxl/public/profile-photos/GRAHAM_Thomas_0.JPG?h=fbde3550

 

Các chuyên gia khác cho rằng có lẽ yếu tố thúc đẩy quan trọng nhất đối với Putin là việc ông lo sợ rằng Ukraine sẽ tiếp tục phát triển thành một nền dân chủ hiện đại theo kiểu phương Tây, và đó là điều chắc chắn sẽ làm suy yếu chế độ chuyên quyền của ông ở Nga và làm ông hy vọng xây dựng lại một khu vực có tầm ảnh hưởng ở Đông Âu do Nga lãnh đạo.

 

Sử gia Anne Applebaum viết trên tạp chí Đại Tây Dương:

https://s3.amazonaws.com/arc-authors/washpost/7102c53f-b755-490c-8ef6-07a78c5746aa.png

“[Putin] muốn gây bất ổn ở Ukraine, làm Ukraine sợ hãi. Ông ấy muốn nền dân chủ Ukraine thất bại. Ông ta muốn nền kinh tế Ukraine sụp đổ. Ông ta muốn giới đầu tư nước ngoài bỏ chạy. Ông ấy muốn các nước láng giềng của Nga — ở Belarus, Kazakhstan, thậm chí cả Ba Lan và Hungary — nghi ngờ liệu nền dân chủ có bao giờ khả thi, về lâu dài, ở các quốc gia của họ hay không.”  (Anne Applebaum)

 

Mục tiêu của Nga ở Ukraine là gì?

 

Nước Nga của Putin được mô tả là một cường quốc theo chủ nghĩa xét lại, muốn lấy lại quyền lực và uy tín trước đây của mình. Gerard Toal, giáo sư về các vấn đề quốc tế tại Virginia Tech, viết trong cuốn sách Near Abroad:

 

“Mục tiêu của Putin luôn là khôi phục nước Nga trở thành một cường quốc ở phía bắc Á-Âu. Mục tiêu cuối cùng không phải là tái tạo Liên Xô mà là làm cho nước Nga vĩ đại trở lại.” (Gerard Toal)

https://spia.vt.edu/content/spia_vt_edu/en/people/faculty/toal/_jcr_content/bio-image.transform/m-medium/image.jpg

 

Bằng cách chiếm Crimea vào năm 2014, Nga đã củng cố quyền kiểm soát của họ tại một vị trí chiến lược trên Biển Đen. Với sự hiện diện quân sự lớn hơn và tinh vi hơn ở đó, Nga có thể phóng chiếu sức mạnh sâu hơn vào Địa Trung Hải, Trung Đông và Bắc Phi, những nơi mà họ đã chỉ có ảnh hưởng hạn chế. Một số trong giới phân tích cho rằng các cường quốc phương Tây đã thất bại trong việc áp đặt cái giá đích đáng với Nga để trả cho việc Nga sáp nhập Crimea, điều mà họ cho rằng chỉ làm tăng việc có thể khiến  Putin sẵn sàng dùng vũ lực để theo đuổi các mục tiêu chính sách đối ngoại của mình. Cho đến khi bị xâm lăng vào năm 2022, thắng lợi về chiến lược của Nga ở Donbas còn mong manh hơn. Việc ủng hộ phe ly khai, ít nhất là tạm thời, đã làm tăng khả năng thương lượng của họ đối với Ukraine.

 

Vào tháng 7 năm 2021, Putin đã viết một bài báo mà nhiều chuyên gia chính sách đối ngoại phương Tây coi là đáng ngại giải thích những quan điểm gây tranh cãi của ông về lịch sử chung giữa Nga và Ukraine. Trong số các nhận xét khác, ông Putin mô tả người Nga và người Ukraine là “một dân tộc” đã chia sẻ “cùng một không gian lịch sử và tâm linh một cách hiệu quả.”

 

Trong suốt năm 2021, Nga đã đưa hàng chục ngàn binh sĩ đến dọc biên giới với Ukraine và sau đó là vào đất của đồng minh Belarus dưới danh nghĩa của các cuộc tập trận. Vào tháng 2 năm 2022, Putin đã ra lệnh mở một cuộc xâm lăng toàn diện, đưa một lực lượng khoảng 200 ngàn quân vào lãnh thổ Ukraine từ phía nam (Crimea), phía đông (Nga) và phía bắc (Belarus), nhằm chiếm giữ các thành phố lớn, gồm cả thủ đô Kyiv, và truất phế chính phủ. Putin nói rằng các mục tiêu rộng lớn là “phi phát xít hóa” và “phi quân sự hóa” Ukraine.

 

Tuy nhiên, trong những tuần đầu của cuộc xâm lăng, các lực lượng Ukraine đã huy động một cuộc phản kháng kiên cường đã thành công trong việc làm sa lầy quân đội Nga ở nhiều khu vực, kể cả Kyiv. Nhiều người trong giới phân tích quốc phòng cho rằng các lực lượng Nga đã sa sút vì tinh thần kém, hậu cần kém và một chiến lược quân sự sai lầm khi cho rằng Ukraine sẽ thất thủ nhanh chóng và dễ dàng.

 

Vào tháng 3, một số người quan sát phương Tây cho rằng, với những thất bại bất ngờ mà Nga phải gánh chịu trên chiến trường, Moscow có thể cắt giảm mục tiêu và cố gắng cắt phần của miền nam Ukraine, chẳng hạn như khu vực Kherson, giống như ở Donbas năm 2014. Nga có thể cố gắng dùng những lãnh thổ mới bị chiếm đóng này làm con bài thương lượng trong các cuộc đàm phán hòa bình với Ukraine, có thể kể cả những quy định về triển vọng của Kyiv trở thành thành viên trong EU và NATO. Những người khác cảnh cáo rằng các cuộc tấn công tiếp tục nhằm vào Kyiv lật tẩy bất kỳ tuyên bố nào của Moscow về việc chuyển các hoạt động quân sự ra khỏi thủ đô của Ukraine.

 

Ưu tiên của Hoa Kỳ ở Ukraine là những gì?

 

Ngay sau khi Liên Xô sụp đổ, ưu tiên của Washington là thúc đẩy Ukraine — cùng với Belarus và Kazakhstan — bỏ kho vũ khí hạch tâm của mình để chỉ có Nga giữ lại vũ khí của Liên bang Sô viết cũ. Đồng thời, Hoa Kỳ gấp rút củng cố nền dân chủ đang lung lay ở Nga. Một số người quan sát nổi tiếng vào thời điểm đó cảm thấy rằng Hoa Kỳ đã đi quá sớm trong việc tán tỉnh Nga, và đáng lẽ Mỹ phải nỗ lực nhiều hơn để thúc đẩy  đa nguyên địa chính trị ở phần còn lại của Liên Xô cũ.

 

Cựu Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ Zbigniew Brzezinski, trong tạp chí Foreign Affairs vào đầu năm 1994, đã mô tả một Ukraine lành mạnh và ổn định là một đối trọng quan trọng đối với Nga và cốt lõi của những gì ông chủ trương phải là một đại chiến lược mới của Mỹ sau Chiến tranh lạnh. Ông viết:

 

“Không thể nhấn mạnh đủ rằng nếu không có Ukraine, Nga sẽ không còn là một đế chế, nhưng với việc Ukraine bị mua chuộc và bị lệ thuộc, Nga sẽ tự động trở thành một đế chế.”

(Zbigniew Brzezinski)

https://cdn-live.foreignaffairs.com/sites/default/files/styles/issue_medium_2x/public/public-assets/images/anthologies/2017/05/27/zbigniew_brzezinski_rtx37ttq.jpg?itok=hUaq9pyi 

 

Trong những tháng sau khi bài báo của Brzezinski được xuất bản, Hoa Kỳ, Anh và Nga đã cam kết thông qua Trưng cầu dân ý ở Budapest sẽ tôn trọng độc lập và chủ quyền của Ukraine để đổi lại việc nước này trở thành một quốc gia phi hạch tâm.

 

Hai mươi năm sau, khi quân đội Nga chiếm Crimea, khôi phục và củng cố chủ quyền của Ukraine được coi là  ưu tiên chính sách đối ngoại hàng đầu của nước Mỹ và EU. Sau cuộc xâm lăng năm 2022, Hoa Kỳ và các đồng minh NATO đã tăng cường hỗ trợ quốc phòng, kinh tế và nhân đạo cho Ukraine, cũng như tăng cường các biện pháp trừng phạt đối với Nga. Tuy nhiên, giới lãnh đạo phương Tây đã cẩn thận để tránh các hành động mà họ tin rằng sẽ lôi kéo quốc gia của họ vào cuộc chiến hoặc làm leo thang cuộc chiến, về mặt cực đoan, có thể gây ra mối đe dọa hạch tâm.

 

Chính sách của Hoa Kỳ và  EU là gì ở Ukraine?

 

Hoa Kỳ vẫn cam kết khôi phục toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Ukraine. Mỹ không công nhận các tuyên bố chủ quyền của Nga ở Crimea hoặc các nước cộng hòa Donetsk và Luhansk, và Mỹ cổ vũ một giải pháp ngoại giao chấm dứt cuộc chiến. Trước cuộc xâm lăng năm 2022, Hoa Kỳ đã hỗ trợ giải quyết xung đột Donbas bằng thỏa thuận Minsk [PDF].

 

Các cường quốc và đối tác phương Tây đã đi nhiều bước để tăng viện trợ cho Ukraine [PDF] và trừng phạt Nga kể từ khi nước này tiến hành cuộc xâm lăng năm 2022. Hoa Kỳ đã cung cấp cho Ukraine hơn 1 tỷ đô la viện trợ an ninh khẩn cấp vào đầu năm 2022 và sau đó thông qua đạo luật bổ sung gồm nhiều tỷ đô la viện trợ. Quân đội Mỹ đã tập luyện với quân đội Ukraine trong những năm gần đây và Mỹ đang cung cấp cho quân đội Ukraine nhiều quân cụ vũ khí khác nhau, kể cả súng bắn tỉa, súng phóng lựu, kính nhìn ban đêm, radar, hỏa tiễn chống xe tăng Javelin, hỏa tiễn phòng không Stinger, tàu tuần duyên, và hệ thống máy bay không người lái (drone). Một số đồng minh NATO đang viện trợ an ninh tương tự.

 

Trong khi đó, các lệnh trừng phạt quốc tế đối với Nga đã mở rộng đáng kể, hiện gồm cả phần lớn các lĩnh vực tài chính, năng lượng, quốc phòng và kỹ thuật của nước này và nhắm vào tài sản của những tài phiệt giàu có và các cá nhân khác. Mỹ và một số chính phủ châu Âu cũng cấm một số ngân hàng Nga tham gia Hiệp hội Viễn thông Tài chính Liên ngân hàng Toàn cầu, một hệ thống nhắn tin tài chính gọi là SWIFT; đặt ra những hạn chế đối với khả năng sử dụng nguồn dự trữ ngoại hối khổng lồ của Nga; và đưa ngân hàng trung ương của Nga vào danh sách đen. Hơn nữa, nhiều công ty có ảnh hưởng của phương Tây đã đóng cửa hoặc đình chỉ hoạt động ở Nga. Nhóm G8, hiện được gọi là Nhóm G7, đã treo tư cách thành viên của Nga vô thời hạn vào năm 2014.

 

Cuộc xâm lăng dường như cũng khiến Nga phải trả giá cho Nord Stream 2 đã chờ đợi từ lâu, sau khi Đức đình chỉ việc phê duyệt theo quy định. Nhiều người trong giới phê bình, kể cả các viên chức chính phủ Mỹ và Ukraine, phản đối đường ống dẫn khí đốt tự nhiên, cho rằng nó sẽ đem lại cho Nga sức bẩy chính trị lớn hơn đối với Ukraine và thị trường khí đốt châu Âu.

 

Người Ukraine muốn gì?

 

Sự hung hăng của Nga trong những năm gần đây đã tạo nên sự ủng hộ của công chúng đối với thiên hướng phương Tây của Ukraine. Theo sau sự trỗi dậy của Euromaidan, Ukraine đã bầu  doanh nhân tỷ phú Petro Poroshenko, một người ủng hộ tích cực hội nhập EU và NATO, làm tổng thống. Vào năm 2019, Zelensky đã đánh bại Poroshenko, một dấu hiệu cho thấy sự bất mãn sâu sắc của công chúng đối với tổ chức chính trị và cuộc chiến chống tham nhũng và nền kinh tế tài phiệt đầu sỏ chính trị ngắc ngứ.

 

Trước cuộc xâm lăng năm 2022, các cuộc thăm dò cho thấy người Ukraine có quan điểm không đồng nhất về tư cách thành viên NATO và EU. Hơn một nửa số người được khảo sát (không kể cư dân của Crimea và các khu vực tranh chấp ở phía đông) ủng hộ tư cách thành viên EU, trong khi 40 đến 50% ủng hộ việc gia nhập NATO.

 

Trong những tuần sau cuộc xâm lăng, một cuộc thăm dò dư luận cho thấy phần lớn người Ukraine được thăm dò đã ủng hộ cuộc kháng chiến vũ trang chống lại Nga và bác bỏ các yêu sách của Nga đối với Crimea và sự hậu thuẫn của các nước cộng hòa ly khai ở Donbas. Hơn một nửa số người được thăm dò cho rằng Ukraine không nên bỏ việc gia nhập NATO trong tương lai để chấm dứt chiến tranh.

 

https://cdn.cfr.org/sites/default/files/styles/card_expert_thumbnail_xxl/public/profile-photos/j_masters.jpg

Tác giả | Jonathan Masters, Phó chủ biên Council on Foreign Relations (CFR). Hội đồng Quan hệ Đối ngoại (CFR) là một tổ chức chuyên gia cố vấn và nhà xuất bản độc lập, phi đảng phái.


Ông là nhà báo và biên tập viên trưởng viết về nhiều chủ đề cho CFR.org. Masters cũng viết về chính sách đối ngoại và an ninh quốc gia và tác phẩm của ông đã xuất hiện trên tạp chí Foreign Affairs, the Atlantic, và Bloomberg. Ông tốt nghiệp Cử nhân Khoa học Chính trị của Đại học Emory và Cao học Lý thuyết Xã hội của New School. Ông là thành viên nhiệm kỳ của CFR và là thành viên của Câu lạc bộ Báo chí Hải ngoại. Email: jmasters@cfr.org

 

© 2022 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


 

Nguồn:  

 

Ukraine: Conflict at the Crossroads of Europe and Russia | Jonathan Masters |Coincil on Foreign Relation | April 1, 2022

 

 

 

 

Ukraine: Xung đột ở ngã tư Châu Âu và Nga   

Jonathan Masters

Trần Giao Thủy dịch thuật

POSTED ON APRIL 9, 2022

https://dcvonline.net/2022/04/09/ukraine-xung-dot-o-nga-tu-chau-au-va-nga/

 

Khuynh hướng theo phương Tây của Ukraine kể từ khi giành độc lập đã bị Nga kéo lại một cách dữ dội, gần đây nhất là cuộc xâm lăng năm 2022 của Putin.

 

https://cdn.cfr.org/sites/default/files/styles/immersive_image_3_2_desktop_2x/public/image/2020/02/Ukraine.jpg

Một người biểu tình ngồi trên một đài kỷ niệm ở Kyiv trong cuộc đụng độ với cảnh sát chống bạo động vào tháng 2 năm 2014. Louisa Gouliamaki/AFP/Getty

 

Tóm lược

 

·         Là một nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, Ukraine có mối quan hệ mật thiết về văn hóa, kinh tế và chính trị với Nga.

·          

·         Năm 2014, Nga sáp nhập Crimea, một phần của Ukraine, khi Moscow nhận thấy nó ngày càng trở nên liên kết chặt chẽ hơn với các thể chế phương Tây, chính là EU và NATO.

·          

·         Cuộc xâm lăng vô cớ của Nga vào Ukraine năm 2022 được một số chuyên gia coi là một phần của sự cạnh tranh địa chính trị mới giữa các cường quốc.

 

Dẫn nhập

 

Ukraine từ lâu đã đóng một vai trò quan trọng, nhưng đôi khi bị bỏ qua, trong trật tự an ninh toàn cầu. Hiện nay, quốc gia này đang ở trên chiến tuyến của một cuộc cạnh tranh cường quốc mới mà nhiều nhà phân tích cho rằng sẽ chi phối các mối quan hệ quốc tế trong những thập niên tới.

 

Cuộc xâm lăng toàn diện của Nga vào Ukraine vào năm 2022 đã đánh dấu sự leo thang bất ngờ của cuộc xung đột kéo dài 8 năm và là một bước ngoặt lịch sử đối với nên an ninh châu Âu. Với việc mở rộng viện trợ của phương Tây, Ukraine đã xoay xở để gây trở ngại lớn cho cuộc tấn công của Nga, nhưng nhiều thành phố của nước này đã bị băm nát và một phần tư dân Ukraine hiện là người tị nạn hoặc đã phải di tản. Vẫn chưa rõ liệu một nghị quyết ngoại giao có thể có hay không và bằng cách nào. Vị trí của Ukraine trên thế giới, gồm cả sự liên kết trong tương lai với các thể chế như Liên minh châu Âu (EU) và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), luôn nằm trong sự cân bằng.

 

Tại sao Ukraine lại là một điểm nóng về địa chính trị?

 

Ukraine là một cột trụ của Liên Xô cũ, đối thủ của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh. Chỉ sau Nga, nước này đông dân và hùng mạnh thứ hai trong số mười lăm nước cộng hòa thuộc Liên Xô, nơi tập trung phần lớn cơ sở sản xuất nông nghiệp, kỹ nghệ quốc phòng và quân sự của Liên bang, gồm cả Hạm đội Biển Đen và một số kho vũ khí hạch tâm. Ukraine rất quan trọng đối với Liên bang Xô viết đến nỗi quyết định cắt đứt quan hệ vào năm 1991 được coi là một cuộc đảo chính đối với siêu cường đang ốm yếu.

 

Trong ba chục năm độc lập, Ukraine đã tìm cách tạo dựng con đường riêng như một quốc gia có chủ quyền trong khi tìm cách liên kết chặt chẽ hơn với các thể chế phương Tây, kể cả EU và NATO. Tuy nhiên, Kyiv đã phải vật lộn để cân bằng những mối quan hệ đối ngoại và giảm thiểu những chia rẽ sâu sắc trong nội bộ. Cộng đồng thiên dân tộc chủ nghĩa hơn, nói tiếng Ukraina ở vùng phía tây nói chung ủng hộ hội nhập nhiều hơn với châu Âu, trong khi một cộng đồng phần lớn nói tiếng Nga ở phía đông ủng hộ mối quan hệ chặt chẽ hơn với Nga.

 

https://dcvonline.net/wp-content/uploads/2022/04/cfr1-893x1024.jpg

Bản Đồ Ukraine

Nguồn: CIA World Factbook; Ngân hàng thế giới.

 

UKRAINE

·         Diện tích: 603.550 km vuông (quốc gia lớn nhất ở Châu Âu, ngoại trừ Nga)

·         Dân số (2021): 44 triệu

·         Tôn giáo: Cơ đốc giáo chính thống, Công giáo, Tin lành

·         Ngôn ngữ chính: Tiếng Ukraina (chính thức), tiếng Nga

·         Hình thức chính phủ: Cộng hòa, không hẳn theo tổng thống chế

·         GDP (2020): 155,5 tỷ đô la

·         GDP/đầu người (2020): $ 3,725

 

Ukraine đã trở thành một chiến trường vào năm 2014 khi Nga sáp nhập Crimea và bắt đầu trang bị vũ khí và tiếp tay cho quân ly khai ở vùng Donbas ở phía đông nam của Ukraine. Việc Nga chiếm Crimea là lần đầu tiên một quốc gia châu Âu sáp nhập lãnh thổ của một quốc gia khác, kể từ Thế chiến thứ hai. Hơn 14 ngàn người đã chết trong cuộc giao tranh ở Donbas từ năm 2014 đến năm 2021, cuộc xung đột đẫm máu nhất ở châu Âu kể từ sau Chiến tranh Balkan những năm 1990. Đối với nhiều người trong giới phân tích, sự thù địch đánh dấu sự thay đổi rõ ràng trong môi trường an ninh toàn cầu từ thời kỳ đơn cực của sự thống trị của Hoa Kỳ được xác định bằng sự cạnh tranh mới giữa các cường quốc [PDF].

 

Vào tháng 2 năm 2022, Nga bắt tay vào một cuộc xâm lăng toàn diện vào Ukraine với mục đích lật đổ chính phủ liên kết với phương Tây của Volodymyr Zelenskyy.

 

Những lợi ích của Nga ở Ukraine là gì?

 

Nga có mối quan hệ mật thiết về văn hóa, kinh tế và chính trị với Ukraine, và về nhiều mặt, Ukraine là trung tâm của bản sắc và tầm nhìn của Nga trên thế giới.

 

Quan hệ gia đình. Nga và Ukraine có mối quan hệ gia đình bền chặt kéo dài hàng thế kỷ. Kyiv, thủ đô của Ukraine, đôi khi được coi là “mẹ của các thành phố Nga”, ngang hàng về ảnh hưởng văn hóa với Moscow và St. Petersburg. Chính tại Kyiv vào thế kỷ thứ tám và thứ chín, Cơ đốc giáo đã được đưa từ Byzantium đến với những dân tộc Slav. Và chính Cơ đốc giáo đã đóng vai trò là mỏ neo cho Kievan Rus, nhà nước Slav ban đầu mà từ đó người Nga, Ukraine và Belarussia hiện đại đều coi là nguồn gốc dòng dõi của họ.

 

Cộng đồng người Nga. Theo một cuộc điều tra dân số thực hiện vào năm 2001, khoảng tám triệu người sắc tộc Nga đang sống ở Ukraine vào năm đó, phần lớn ở phía nam và phía đông. Moscow tuyên bố có nhiệm vụ bảo vệ những người này như một cái cớ cho những hành động của Nga ở Crimea và Donbas vào năm 2014.

 

Hình ảnh siêu cường. Sau khi Liên Xô sụp đổ, nhiều chính khách Nga coi vụ ly hôn với Ukraine là một sai lầm của lịch sử và là mối đe dọa đối với vị thế cường quốc của Nga. Việc để mất quyền nắm giữ lâu dài đối với Ukraine và để nước này rơi vào quỹ đạo của phương Tây, được nhiều người coi là một đòn giáng mạnh vào uy tín quốc tế của Nga.

 

Crimea. Nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev đã chuyển Crimea từ Nga cho Ukraine vào năm 1954 để tăng cường “mối quan hệ anh em giữa các dân tộc Ukraine và Nga.” Tuy nhiên, kể từ khi Liên bang tan rã, nhiều người Nga theo chủ nghĩa dân tộc ở cả Nga và Crimea đều mong mỏi bán đảo trở lại Nga. Thành phố Sevastopol là nơi đóng quân của Hạm đội Biển Đen của Nga, lực lượng hàng hải thống trị trong khu vực.

 

Buôn bán. Nga từ lâu đã là đối tác thương mại lớn nhất của Ukraine, mặc dù mối liên kết này đã khô héo đáng kể trong những năm gần đây. Trung Hoa cuối cùng đã vượt qua Nga trong thương mại với Ukraine. Trước khi xâm lăng Crimea, Nga đã hy vọng kéo Ukraine vào thị trường duy nhất của họ, Liên minh Kinh tế Á-Âu (EAEU), ngày nay gồm có Armenia, Belarus, Kazakhstan và Kyrgyzstan.

 

Năng lượng. Nga đã dựa vào các đường ống của Ukraine để chuyển khí đốt của Nga cho các khách hàng ở Trung và Đông Âu trong nhiều chục năm và họ phải trả hàng tỷ đô la mỗi năm cho chi phí vận chuyển đến Kyiv. Dòng khí đốt của Nga qua Ukraine vẫn tiếp tục vào đầu năm 2022 bất chấp sự bùng nổ của các cuộc xung đột giữa hai nước. Nga đã có kế hoạch vận chuyển nhiều khí đốt hơn đến châu Âu qua đường ống Nord Stream 2 mới của họ, chạy dưới Biển Baltic tới Đức, nhưng Berlin đã ngăn chặn việc phê duyệt dự án theo quy định sau cuộc xâm lăng của Nga.

 

Ảnh hưởng chính trị. Nga luôn quan tâm đến việc duy trì ảnh hưởng chính trị của mình ở Ukraine và trên toàn Liên Xô cũ, đặc biệt là sau khi ứng cử viên tổng thống được ưa chuộng năm 2004, Viktor Yanukovych, đã thua một đối thủ thiên về đổi mới trong cuộc Cách mạng Cam. Cú sốc này đối với lợi ích của Nga ở Ukraine xảy ra sau một thất bại bầu cử tương tự đối với Điện Kremlin ở Georgia vào năm 2003, gọi là Cách mạng Hoa hồng, và tiếp theo là một cuộc cách mạng khác — Cách mạng hoa Tulip — ở Kyrgyzstan vào năm 2005.

 

Yanukovych sau đó trở thành tổng thống Ukraine, trong 2010, giữa lúc cử tri bất bình với chính phủ Cách mạng Cam.

 

Điều gì đã khiến Nga vào Crimea và Donbas vào năm 2014?

 

Chính mối quan hệ của Ukraine với EU đã khiến căng thẳng bùng phát với Nga trong giai đoạn 2013–14. Vào cuối năm 2013, Tổng thống Yanukovych, hành động dưới áp lực của những người ủng hộ ông ở Moscow, đã hủy bỏ kế hoạch chính thức hóa mối quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn với EU. Nga đồng thời ép Ukraine tham gia EAEU chưa thành lập. Nhiều người Ukraine coi quyết định của ông Yanukovych là sự phản bội của một chính phủ tham nhũng và bất tài, và nó đã gây ra các cuộc biểu tình trên toàn quốc được gọi là Euromaidan.

 

Putin đã xem sự xáo trộn của Euromaidan sau đó, khiến Yanukovych phải từ bỏ quyền lực, như một “cuộc đảo chính phát xít” do phương Tây hậu thuẫn gây nguy hiểm cho đa số người Nga ở Crimea. (Giới lãnh đạo phương Tây bác bỏ điều này là tuyên truyền vô căn cứ gợi nhớ đến thời kỳ Xô Viết.) Đáp lại, Putin đã ra lệnh mở cuộc xâm lăng bí mật vào Crimea mà sau đó ông biện minh là một chiến dịch giải cứu. Trong một bài phát biểu vào tháng 3 năm 2014 chính thức hóa việc sáp nhập Crimea, Putin nói, “Mọi thứ đều có giới hạn. Và với Ukraine, các đối tác phương Tây của chúng tôi đã vượt qua ranh giới.”  

 

Putin đã dùng một lý cớ tương tự để biện minh cho sự ủng hộ của ông đối với những người ly khai ở đông nam Ukraine, một khu vực khác có đông người sắc tộc Nga và những người nói tiếng Nga. Ông gọi khu vực này nổi tiếng với cái tên Novorossiya (Nước Nga Mới), một thuật ngữ có từ thời đế quốc Nga thế kỷ mười tám. Những kẻ khiêu chiến có vũ trang của Nga, gồm cả một số điệp viên thuộc các cơ quan an ninh Nga, được cho là đã đóng vai trò trung tâm trong việc khuấy động các phong trào ly khai chống Euromaidan trong khu vực thành một cuộc nổi dậy. Tuy nhiên, không giống như Crimea, Nga tiếp tục chính thức phủ nhận sự tham gia của họ vào cuộc xung đột Donbas cho đến khi nước này tiến hành cuộc xâm lăng vào Ukraine vào năm 2022.

 

Tại sao Nga tiến hành một cuộc xâm lăng toàn diện vào Ukraine vào năm 2022?

 

Một số chuyên viên trong giới phân tích phương Tây coi cuộc xâm lăng năm 2022 của Nga là đỉnh điểm của sự phẫn nộ ngày càng tăng của Điện Kremlin đối với sự bành trướng của NATO thời hậu Chiến tranh Lạnh sang vùng ảnh hưởng của Liên Xô cũ. Giới lãnh đạo Nga, kể cả Putin, đã cáo buộc rằng Hoa Kỳ và NATO đã nhiều lần vi phạm các cam kết mà họ đã đưa ra vào đầu những năm 1990 là không mở rộng liên minh sang khối Liên Xô cũ. Họ coi sự mở rộng của NATO trong thời kỳ hỗn loạn này đối với Nga là một sự áp đặt nhục nhã về điều mà họ không thể làm được ngoài việc quan sát.

 

https://dcvonline.net/wp-content/uploads/2022/04/cfr2-640x1024.jpg

Sự phát triển các thành viên của NATO.   Nguồn: NATO.

 

Thành viên sáng lập Năm 1949
Bỉ
Canada
Đan Mạch
Pháp
Iceland
Ý
Luxembourg
Hòa Lan
Na Uy
Portugal
Anh
Hoa Kỳ

 

Mở rộng sau Chiến tranh lạnh

1952: Hy Lạp, Turkey

1955: Tây Đức

1982: Tây Ban Nha

 

Bành trướng sau chiến tranh lạnh

1990: Nước Đức *

1999: Cộng hòa Czech, Hungary, Ba Lan

2004: Bulgary, Estonia, Latvia, Lithuania, Romania, Slovak, Slovenia,

2009: Albania, Croatia

2017: Montenegro

2020: Bắc Macedonia

 

Việc thống nhất nước Đức vào năm 1990 dẫn đến việc Đông Đức trước đây trở thành một phần của NATO. Bản đồ cho thấy Tây và Đông Đức.

 

Trong những tuần trước thềm hội nghị thượng đỉnh năm 2008 của NATO, Tổng thống Vladimir Putin đã cảnh cáo giới ngoại giao Hoa Kỳ đưa Ukraine vào liên minh “sẽ là một hành động thù địch đối với Nga.” Nhiều tháng sau, Nga gây chiến với Gruzia, dường như cho thấy Putin sẵn sàng dùng vũ lực để  bảo đảm lợi ích của đất nước của ông. (Một số trong giới quan sát độc lập đã quy lỗi cho Gruzia vì đã khơi mào cái gọi là Chiến tranh Tháng Tám nhưng lại trách Nga vì đã khiến những hành động thù địch leo thang).

 

Mặc dù không phải là thành viên, Ukraine đã phát triển quan hệ với NATO trong những năm trước cuộc xâm lăng 2022. Ukraine đã tổ chức các cuộc tập trận quân sự hàng năm với liên minh và vào năm 2020, Ukraine đã trở thành một trong sáu đối tác cơ hội nâng cao, một vị thế đặc biệt đối với các đồng minh không phải là thành viên thân cận nhất của khối. Hơn nữa, Kyiv khẳng định mục tiêu cuối cùng là trở thành thành viên NATO.

 

Trong những tuần trước cuộc xâm lăng, Nga đã đưa ra một số đòi hỏi quan trọng về an ninh đối với Hoa Kỳ và NATO, gồm việc họ ngừng mở rộng liên minh, phải có sự đồng ý của Nga đối với một số hoạt động của NATO và loại bỏ vũ khí hạch tâm của Hoa Kỳ ở Châu Âu. Giới lãnh đạo Liên minh trả lời rằng họ cởi mở với các chính sách ngoại giao mới nhưng không sẵn lòng thảo luận về việc đóng cửa NATO không nhận thành viên mới. Thomas Graham của CFR nói với Arms Control Today vào tháng 2 năm 2022 :

 

“Trong khi ở Hoa Kỳ, chúng ta nói về cuộc khủng hoảng Ukraine, theo quan điểm của Nga, đây là cuộc khủng hoảng trong kiến trúc an ninh châu Âu. Và vấn đề cơ bản mà họ muốn đàm phán là sửa đổi của kiến trúc an ninh châu Âu hiện nay thành một cái gì đó có lợi hơn cho lợi ích của Nga.”  (Thomas Graham)

https://cdn.cfr.org/sites/default/files/styles/card_expert_thumbnail_xxl/public/profile-photos/GRAHAM_Thomas_0.JPG?h=fbde3550

 

Các chuyên gia khác cho rằng có lẽ yếu tố thúc đẩy quan trọng nhất đối với Putin là việc ông lo sợ rằng Ukraine sẽ tiếp tục phát triển thành một nền dân chủ hiện đại theo kiểu phương Tây, và đó là điều chắc chắn sẽ làm suy yếu chế độ chuyên quyền của ông ở Nga và làm ông hy vọng xây dựng lại một khu vực có tầm ảnh hưởng ở Đông Âu do Nga lãnh đạo.

 

Sử gia Anne Applebaum viết trên tạp chí Đại Tây Dương:

https://s3.amazonaws.com/arc-authors/washpost/7102c53f-b755-490c-8ef6-07a78c5746aa.png

“[Putin] muốn gây bất ổn ở Ukraine, làm Ukraine sợ hãi. Ông ấy muốn nền dân chủ Ukraine thất bại. Ông ta muốn nền kinh tế Ukraine sụp đổ. Ông ta muốn giới đầu tư nước ngoài bỏ chạy. Ông ấy muốn các nước láng giềng của Nga — ở Belarus, Kazakhstan, thậm chí cả Ba Lan và Hungary — nghi ngờ liệu nền dân chủ có bao giờ khả thi, về lâu dài, ở các quốc gia của họ hay không.”  (Anne Applebaum)

 

Mục tiêu của Nga ở Ukraine là gì?

 

Nước Nga của Putin được mô tả là một cường quốc theo chủ nghĩa xét lại, muốn lấy lại quyền lực và uy tín trước đây của mình. Gerard Toal, giáo sư về các vấn đề quốc tế tại Virginia Tech, viết trong cuốn sách Near Abroad:

 

“Mục tiêu của Putin luôn là khôi phục nước Nga trở thành một cường quốc ở phía bắc Á-Âu. Mục tiêu cuối cùng không phải là tái tạo Liên Xô mà là làm cho nước Nga vĩ đại trở lại.” (Gerard Toal)

https://spia.vt.edu/content/spia_vt_edu/en/people/faculty/toal/_jcr_content/bio-image.transform/m-medium/image.jpg

 

Bằng cách chiếm Crimea vào năm 2014, Nga đã củng cố quyền kiểm soát của họ tại một vị trí chiến lược trên Biển Đen. Với sự hiện diện quân sự lớn hơn và tinh vi hơn ở đó, Nga có thể phóng chiếu sức mạnh sâu hơn vào Địa Trung Hải, Trung Đông và Bắc Phi, những nơi mà họ đã chỉ có ảnh hưởng hạn chế. Một số trong giới phân tích cho rằng các cường quốc phương Tây đã thất bại trong việc áp đặt cái giá đích đáng với Nga để trả cho việc Nga sáp nhập Crimea, điều mà họ cho rằng chỉ làm tăng việc có thể khiến  Putin sẵn sàng dùng vũ lực để theo đuổi các mục tiêu chính sách đối ngoại của mình. Cho đến khi bị xâm lăng vào năm 2022, thắng lợi về chiến lược của Nga ở Donbas còn mong manh hơn. Việc ủng hộ phe ly khai, ít nhất là tạm thời, đã làm tăng khả năng thương lượng của họ đối với Ukraine.

 

Vào tháng 7 năm 2021, Putin đã viết một bài báo mà nhiều chuyên gia chính sách đối ngoại phương Tây coi là đáng ngại giải thích những quan điểm gây tranh cãi của ông về lịch sử chung giữa Nga và Ukraine. Trong số các nhận xét khác, ông Putin mô tả người Nga và người Ukraine là “một dân tộc” đã chia sẻ “cùng một không gian lịch sử và tâm linh một cách hiệu quả.”

 

Trong suốt năm 2021, Nga đã đưa hàng chục ngàn binh sĩ đến dọc biên giới với Ukraine và sau đó là vào đất của đồng minh Belarus dưới danh nghĩa của các cuộc tập trận. Vào tháng 2 năm 2022, Putin đã ra lệnh mở một cuộc xâm lăng toàn diện, đưa một lực lượng khoảng 200 ngàn quân vào lãnh thổ Ukraine từ phía nam (Crimea), phía đông (Nga) và phía bắc (Belarus), nhằm chiếm giữ các thành phố lớn, gồm cả thủ đô Kyiv, và truất phế chính phủ. Putin nói rằng các mục tiêu rộng lớn là “phi phát xít hóa” và “phi quân sự hóa” Ukraine.

 

Tuy nhiên, trong những tuần đầu của cuộc xâm lăng, các lực lượng Ukraine đã huy động một cuộc phản kháng kiên cường đã thành công trong việc làm sa lầy quân đội Nga ở nhiều khu vực, kể cả Kyiv. Nhiều người trong giới phân tích quốc phòng cho rằng các lực lượng Nga đã sa sút vì tinh thần kém, hậu cần kém và một chiến lược quân sự sai lầm khi cho rằng Ukraine sẽ thất thủ nhanh chóng và dễ dàng.

 

Vào tháng 3, một số người quan sát phương Tây cho rằng, với những thất bại bất ngờ mà Nga phải gánh chịu trên chiến trường, Moscow có thể cắt giảm mục tiêu và cố gắng cắt phần của miền nam Ukraine, chẳng hạn như khu vực Kherson, giống như ở Donbas năm 2014. Nga có thể cố gắng dùng những lãnh thổ mới bị chiếm đóng này làm con bài thương lượng trong các cuộc đàm phán hòa bình với Ukraine, có thể kể cả những quy định về triển vọng của Kyiv trở thành thành viên trong EU và NATO. Những người khác cảnh cáo rằng các cuộc tấn công tiếp tục nhằm vào Kyiv lật tẩy bất kỳ tuyên bố nào của Moscow về việc chuyển các hoạt động quân sự ra khỏi thủ đô của Ukraine.

 

Ưu tiên của Hoa Kỳ ở Ukraine là những gì?

 

Ngay sau khi Liên Xô sụp đổ, ưu tiên của Washington là thúc đẩy Ukraine — cùng với Belarus và Kazakhstan — bỏ kho vũ khí hạch tâm của mình để chỉ có Nga giữ lại vũ khí của Liên bang Sô viết cũ. Đồng thời, Hoa Kỳ gấp rút củng cố nền dân chủ đang lung lay ở Nga. Một số người quan sát nổi tiếng vào thời điểm đó cảm thấy rằng Hoa Kỳ đã đi quá sớm trong việc tán tỉnh Nga, và đáng lẽ Mỹ phải nỗ lực nhiều hơn để thúc đẩy  đa nguyên địa chính trị ở phần còn lại của Liên Xô cũ.

 

Cựu Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ Zbigniew Brzezinski, trong tạp chí Foreign Affairs vào đầu năm 1994, đã mô tả một Ukraine lành mạnh và ổn định là một đối trọng quan trọng đối với Nga và cốt lõi của những gì ông chủ trương phải là một đại chiến lược mới của Mỹ sau Chiến tranh lạnh. Ông viết:

 

“Không thể nhấn mạnh đủ rằng nếu không có Ukraine, Nga sẽ không còn là một đế chế, nhưng với việc Ukraine bị mua chuộc và bị lệ thuộc, Nga sẽ tự động trở thành một đế chế.”

(Zbigniew Brzezinski)

https://cdn-live.foreignaffairs.com/sites/default/files/styles/issue_medium_2x/public/public-assets/images/anthologies/2017/05/27/zbigniew_brzezinski_rtx37ttq.jpg?itok=hUaq9pyi 

 

Trong những tháng sau khi bài báo của Brzezinski được xuất bản, Hoa Kỳ, Anh và Nga đã cam kết thông qua Trưng cầu dân ý ở Budapest sẽ tôn trọng độc lập và chủ quyền của Ukraine để đổi lại việc nước này trở thành một quốc gia phi hạch tâm.

 

Hai mươi năm sau, khi quân đội Nga chiếm Crimea, khôi phục và củng cố chủ quyền của Ukraine được coi là  ưu tiên chính sách đối ngoại hàng đầu của nước Mỹ và EU. Sau cuộc xâm lăng năm 2022, Hoa Kỳ và các đồng minh NATO đã tăng cường hỗ trợ quốc phòng, kinh tế và nhân đạo cho Ukraine, cũng như tăng cường các biện pháp trừng phạt đối với Nga. Tuy nhiên, giới lãnh đạo phương Tây đã cẩn thận để tránh các hành động mà họ tin rằng sẽ lôi kéo quốc gia của họ vào cuộc chiến hoặc làm leo thang cuộc chiến, về mặt cực đoan, có thể gây ra mối đe dọa hạch tâm.

 

Chính sách của Hoa Kỳ và  EU là gì ở Ukraine?

 

Hoa Kỳ vẫn cam kết khôi phục toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Ukraine. Mỹ không công nhận các tuyên bố chủ quyền của Nga ở Crimea hoặc các nước cộng hòa Donetsk và Luhansk, và Mỹ cổ vũ một giải pháp ngoại giao chấm dứt cuộc chiến. Trước cuộc xâm lăng năm 2022, Hoa Kỳ đã hỗ trợ giải quyết xung đột Donbas bằng thỏa thuận Minsk [PDF].

 

Các cường quốc và đối tác phương Tây đã đi nhiều bước để tăng viện trợ cho Ukraine [PDF] và trừng phạt Nga kể từ khi nước này tiến hành cuộc xâm lăng năm 2022. Hoa Kỳ đã cung cấp cho Ukraine hơn 1 tỷ đô la viện trợ an ninh khẩn cấp vào đầu năm 2022 và sau đó thông qua đạo luật bổ sung gồm nhiều tỷ đô la viện trợ. Quân đội Mỹ đã tập luyện với quân đội Ukraine trong những năm gần đây và Mỹ đang cung cấp cho quân đội Ukraine nhiều quân cụ vũ khí khác nhau, kể cả súng bắn tỉa, súng phóng lựu, kính nhìn ban đêm, radar, hỏa tiễn chống xe tăng Javelin, hỏa tiễn phòng không Stinger, tàu tuần duyên, và hệ thống máy bay không người lái (drone). Một số đồng minh NATO đang viện trợ an ninh tương tự.

 

Trong khi đó, các lệnh trừng phạt quốc tế đối với Nga đã mở rộng đáng kể, hiện gồm cả phần lớn các lĩnh vực tài chính, năng lượng, quốc phòng và kỹ thuật của nước này và nhắm vào tài sản của những tài phiệt giàu có và các cá nhân khác. Mỹ và một số chính phủ châu Âu cũng cấm một số ngân hàng Nga tham gia Hiệp hội Viễn thông Tài chính Liên ngân hàng Toàn cầu, một hệ thống nhắn tin tài chính gọi là SWIFT; đặt ra những hạn chế đối với khả năng sử dụng nguồn dự trữ ngoại hối khổng lồ của Nga; và đưa ngân hàng trung ương của Nga vào danh sách đen. Hơn nữa, nhiều công ty có ảnh hưởng của phương Tây đã đóng cửa hoặc đình chỉ hoạt động ở Nga. Nhóm G8, hiện được gọi là Nhóm G7, đã treo tư cách thành viên của Nga vô thời hạn vào năm 2014.

 

Cuộc xâm lăng dường như cũng khiến Nga phải trả giá cho Nord Stream 2 đã chờ đợi từ lâu, sau khi Đức đình chỉ việc phê duyệt theo quy định. Nhiều người trong giới phê bình, kể cả các viên chức chính phủ Mỹ và Ukraine, phản đối đường ống dẫn khí đốt tự nhiên, cho rằng nó sẽ đem lại cho Nga sức bẩy chính trị lớn hơn đối với Ukraine và thị trường khí đốt châu Âu.

 

Người Ukraine muốn gì?

 

Sự hung hăng của Nga trong những năm gần đây đã tạo nên sự ủng hộ của công chúng đối với thiên hướng phương Tây của Ukraine. Theo sau sự trỗi dậy của Euromaidan, Ukraine đã bầu  doanh nhân tỷ phú Petro Poroshenko, một người ủng hộ tích cực hội nhập EU và NATO, làm tổng thống. Vào năm 2019, Zelensky đã đánh bại Poroshenko, một dấu hiệu cho thấy sự bất mãn sâu sắc của công chúng đối với tổ chức chính trị và cuộc chiến chống tham nhũng và nền kinh tế tài phiệt đầu sỏ chính trị ngắc ngứ.

 

Trước cuộc xâm lăng năm 2022, các cuộc thăm dò cho thấy người Ukraine có quan điểm không đồng nhất về tư cách thành viên NATO và EU. Hơn một nửa số người được khảo sát (không kể cư dân của Crimea và các khu vực tranh chấp ở phía đông) ủng hộ tư cách thành viên EU, trong khi 40 đến 50% ủng hộ việc gia nhập NATO.

 

Trong những tuần sau cuộc xâm lăng, một cuộc thăm dò dư luận cho thấy phần lớn người Ukraine được thăm dò đã ủng hộ cuộc kháng chiến vũ trang chống lại Nga và bác bỏ các yêu sách của Nga đối với Crimea và sự hậu thuẫn của các nước cộng hòa ly khai ở Donbas. Hơn một nửa số người được thăm dò cho rằng Ukraine không nên bỏ việc gia nhập NATO trong tương lai để chấm dứt chiến tranh.

 

https://cdn.cfr.org/sites/default/files/styles/card_expert_thumbnail_xxl/public/profile-photos/j_masters.jpg

Tác giả | Jonathan Masters, Phó chủ biên Council on Foreign Relations (CFR). Hội đồng Quan hệ Đối ngoại (CFR) là một tổ chức chuyên gia cố vấn và nhà xuất bản độc lập, phi đảng phái.


Ông là nhà báo và biên tập viên trưởng viết về nhiều chủ đề cho CFR.org. Masters cũng viết về chính sách đối ngoại và an ninh quốc gia và tác phẩm của ông đã xuất hiện trên tạp chí Foreign Affairs, the Atlantic, và Bloomberg. Ông tốt nghiệp Cử nhân Khoa học Chính trị của Đại học Emory và Cao học Lý thuyết Xã hội của New School. Ông là thành viên nhiệm kỳ của CFR và là thành viên của Câu lạc bộ Báo chí Hải ngoại. Email: jmasters@cfr.org

 

© 2022 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


 

Nguồn:  

 

Ukraine: Conflict at the Crossroads of Europe and Russia | Jonathan Masters |Coincil on Foreign Relation | April 1, 2022